Nước Trời Của Những Ai Nên Giống Như Trẻ Nhỏ (Mt 19,4)

 

Sư Phạm
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo

 

 

 

- Phần I: Giáo lý - Sư Phạm Giáo Lý

- Phần II: Dạy Giáo Lý Theo Lứa Tuổi

- Phần III: Các Phương Pháp

- Sư Phạm Giáo Lý: 30 câu Hỏi-Thưa

 

 

PHẦN III: CÁC PHƯƠNG PHÁP

 

Bài 14. TRÌNH BÀY - GIẢI THÍCH - ÁP DỤNG TRONG GIỜ GIÁO LÝ

 

Mỗi bài Giáo lý thường có ba phần chính: Trình bày “Giải thích” Áp dụng thực hành. Bài này nhằm gợi ý cho GLV những phương cách để dạy tốt 3 phần chính trong giờ Giáo lý.

 

I. HÌNH THỨC TRÌNH BÀY
1. Từ câu chuyện:
Hình thức giảng dạy bằng thuật chuyện đã được chính Chúa Kitô sử dụng. Người rất hay trình bày giáo lý cao siêu dưới hình thức một câu chuyện. Hầu như tất cả giáo điều hàm chứa trong Thánh Kinh đều dưới hình thức câu chuyện!
Giáo lý Giáo hội có thể nói được là những suy tư dựa trên những câu chuyện, những dụ ngôn trong Thánh Kinh. Điều này rất đúng, nhất là trong các tín điều về Chúa Ba Ngôi, về Chúa Giêsu, về sự hiện diện thật sự trong Thánh thể, về Giáo hội ... Hơn thế nữa, Thánh Kinh chứa đựng rất nhiều câu chuyện tuyệt hay, làm sáng tỏ và làm sống động mỗi điểm của giáo lý và luân lý Kitô giáo. Đôi khi câu chuyện cũng có thể rút từ Hạnh các thánh, từ kinh nghiệm bản thân.

 

Muốn kể chuyện hay, GLV hãy cố gắng tưởng tượng mình là một nhân chứng đã mục kích câu chuyện, rồi bạn hãy kể:
-Với cả tâm hồn, qua con mắt và giọng nói truyền cảm.
-Diễn tả những ngoại cảm.
-Bộc lộ những nội cảm.
-Dùng những câu trích dẫn trực tiếp (văn đối thoại).
(X. Sư Phạm chuyện kể .tr.54)

 

2. Dùng hình ảnh:
Hình ảnh không những giúp ta làm sáng tỏ câu chuyện, mà đôi khi ta có thể rút cả câu chuyện vào một hình ảnh, bằng cách hỏi sau đó những gì sẽ xảy ra? Một tập hình ảnh với lời chỉ dẫn rất có ích lợi cho việc trình bày giáo lý cách hấp dẫn và ghi nhớ lâu nơi trẻ. (Xem: Sư phạm Hình ảnh)

 

3. Vẽ vài nét phát hoạ hay vẽ hình trên bảng nhiều khi cũng có thể làm khởi điểm cho câu chuyện, giúp trình bày đề tài giáo lý. (X. Vẽ trong Giáo lý. tr.72)

 

II. GIẢI THÍCH
1. Trong phần giải thích, GLV làm cho bạn trẻ suy tưởng về câu chuyện và dưới sự hướng dẫn của GLV, chúng sẽ thâu nhận những ý niệm và giáo điều mà chúng cần được giáo huấn. Hãy học lối giải thích nơi Chúa Giêsu: sau khi kể một dụ ngôn, các Tông đồ ngơ ngác không hiểu Ngài muốn nói gì, lúc ấy Chúa mới giải thích cho các ông.

Vài lưu ý: Lời giải thích cần phải:

 

a. Đơn sơ: Cả trẻ nhỏ cũng cần một sự cắt nghĩa hợp lý về giáo lý. Những lời giải thích của bạn phải hợp với khả năng, với số ngữ vựng có giới hạn và với tầm kinh nghiệm hẹp hòi của chúng. Đây là điều khó khăn, đòi hỏi kinh nghiệm và nhiều cố gắng của bạn.

 

b. Cụ thể: Lời giải thích cần sử dụng ngôn ngữ hình ảnh sống động như Chúa Giêsu đã làm. Thay vì nói suông “Hãy quảng đại”, Chúa phán: Nếu người ta xin chúng đi với họ một cây số, chúng con hãy đi hai.

 

c. Luôn nhắc lại những điểm cốt yếu: Trong bài giảng sau Bữa tiệc ly, Chúa Giêsu nhắc lại biết bao lần sự cần thiết của cầu nguyện, sự hợp nhất trong Người. Nhờ việc nhắc đi nhắc lại nhiều lần, trẻ sẽ hiểu và in sâu điều cốt yếu của bài giáo lý.

 

2. Sử dụng Câu hỏi: Câu hỏi là phương tiện giản dị nhất để gợi tư tưởng và giúp cho trẻ hiểu thấu đáo giáo lý. Vậy câu hỏi phải:
-Ngắn và rõ ràng.
-Dùng từ khác với sách giáo lý, cách cụ thể.
-Hỏi với tất cả lớp, rồi cho một em trả lời;
-Phân chia đều câu hỏi: Đừng gạt ra ngoài một vài em; hãy dành những câu hỏi khó cho những em xuất sắc hơn. (X. Sư phạm Câu hỏi.tr.47)

 

3. Bản tóm tắt trên bảng chúng ta thường dùng trong phần giải thích cũng rất hữu ích, giúp trẻ nhìn và ghi nhớ sâu.

Ví dụ: KINH LẠY CHA

 

HAI LƯU Ý QUAN TRỌNG KHI TRÌNH BÀY
1. Dù phải thích ứng với khả năng trẻ, GLV cần thận đừng bóp méo chân lý.
GLV phải làm cho bạn trẻ hiểu Chúa là người Cha đầy tình thương; nhưng không phải chỉ coi Chúa như một ông già hiền lành, luôn luôn dễ dãi và hay làm ơn. Uy quyền, thánh thiện và sự cao cả của Chúa cũng phải được nhấn mạnh không kém lòng nhân từ.
GLV sẽ thiếu sót, nếu chỉ trình bày một Chúa Giêsu nhân ái và dịu dàng mà không nói đến Chúa Giêsu Vua, thưởng phạt công bằng, Người không bao giờ dung túng kẻ bất trung.
Khi dạy về Chúa quan phòng, GLV sẽ làm cho trẻ hiểu lầm, nếu chỉ cho chúng tin rằng điều gì Chúa cũng làm dễ dàng cho ta, mà quên nói về sự cộng tác của con người.

 

2. Mục đích của việc dạy giáo lý không chỉ nhằm vào dạy kiến thức mà vào Đức Tin. Vậy:
GLV phải cẩn thận, làm sao cho bạn trẻ thấy ở Giáo lý Công giáo một sứ điệp của Thiên Chúa gởi tới. GLV phải ý thức rằng mình đang trao một tín thư của Chúa, đó là “tín thư của cứu rỗi”. Thiên Chúa nói với bạn trẻ rằng: Người muốn cứu họ. Việc dạy giáo lý phải nhằm vào lòng tin, tin vượt xa hẳn thái độ “tin như thật”. Tin là mở tâm hồn đón nhận ơn Cứu Độ của Chúa, luôn thưa với Chúa: “Xin vâng như lời Chúa truyền”.

 

Về cơ cấu của lòng tin: GLV phải hướng dẫn sao cho bạn trẻ hiểu rằng: Thiên Chúa nói qua Giáo hội; ta không tin cách mù quáng, vì ta biết rằng lời dạy dỗ của Giáo hội là Lời Chúa.
GLV đừng đem giảng ngay những chứng lý xác đáng về Thiên Chúa, về việc Chúa lập Giáo hội. Những điều ấy không thích hợp cho lòng tin thơ ngây của đứa trẻ. Nhưng hãy vạch rõ Chúa tỏ mình bằng nhiều cách như thế nào, trình bày vẽ đẹp và sự vững bền của Giáo hội, tính cách duy nhất và phổ quát, kết quả của Giáo hội trong việc lành và hạnh các thánh. Đường lối tốt nhất để củng cố Đức Tin là thực hành Đức Tin.

 

III. ÁP DỤNG THỰC HÀNH
1. Dạy Giáo lý, GLV cống gắng làm cho bạn trẻ không những hiểu, mà còn biết nhận định giá trị và thực hành sống đạo. Sau khi giải thích mỗi tín điều, GLV cần hướng dẫn vào áp dụng thực hành trong đời sống. Hai câu hỏi dưới đây GLV sử dụng để giúp trẻ áp dụng thực hành:

 

a). Tín điều này có ý nghĩa gì đối với bản thân tôi?
GLV phải gây cho đứa trẻ một tâm trạng tương ứng đối với tình cảm mà tín điều sẽ gợi lên.
Ví dụ:
-Sự chết của Chúa Kitô trên Thánh giá: Vinh quang Cha trên trời có nghĩa gì đối với tôi?
- Tôi nghĩ gì về tội? Chúa Giêsu yêu chúng tôi biết bao!

 

b). Chân lý này dạy tôi phải làm gì, tránh gì?
Hãy tìm một điều gì xác đáng để thực hành. Ví dụ:
-“Chịu thai bởi phép Thánh Thần”: các em đọc kinh Truyền tin thế nào?
- Sự sa ngã của Adong và Evà: Khi bị cám dỗ các em xử sự làm sao?
- Hậu quả của tội Tổ tông: Các em có xin Chúa Giêsu ban ơn giữ các em trong đường lành?.
NB: GLV đừng gợi những gì mà mình không thực hành.

 

c). Hãy tập cho trẻ biết áp dụng giáo lý vào đời sống hằng ngày:
GLV giúp trẻ thực hành Dấu Thánh Giá, Thánh Lễ, Rước Lễ, ngày lễ thánh bổn mạng, đền thánh.. và dạy cho chúng biết nhìn thấy Chúa qua những kỳ công của Người trong vũ trụ, trong sự khéo léo của bàn tay, đôi mắt, lỗ tai con người; bằng những thí dụ cụ thể mà trẻ học trong vạn vật, địa lý hay khoa học. Rồi kết luận: “Đây là những ý tưởng của Chúa; con cố gắng suy lại những ý tưởng ấy”.

 

2. Áp dụng thực hành theo đúng nghĩa,
gồm có: Huấn luyện lương tâm và thực hành cầu nguyện

 

1. Huấn luyện lương tâm
Để huấn luyện lương tâm: học thuộc 10 giới răn chưa đủ. GLV sẽ thiếu sót lớn, nếu chỉ nếu chỉ dạy cho bạn trẻ hiểu tội là gì, mà không tập cho chúng biết nhận ra đầu là điều lành và vạch ra những gương mẫu để trẻ hăng hái thực hiện việc tốt.
Hiểu biết lý thuyết suông không đủ, cần phải đưa đến những quyết tâm thực hành. GLV thúc giục trẻ xét mình hằng ngày, nhưng cần được hướng dẫn xét mình trong lớp học.

 

Ví dụ: sau khi giảng nghĩa về đức bác ái đối với anh em, hãy bảo trẻ để tay trên trán và xét theo vài câu hỏi:
-Tôi xử đối thế nào với các bạn nhỏ và yếu hơn tôi?
-Hôm nay tôi có giúp đỡ người nào ở gần nhà tôi không?
-Mai đây tôi có thể làm gì cho họ?
Huấn luyện lương tâm được nâng đỡ bằng sự canh tân thái độ và tăng cường động lực.

 

Để thúc đẩy trẻ sống theo lý tưởng thì khi giải thích các giới răn, GLV phải biết bày tỏ vẻ đẹp và sự hấp dẫn của những tâm hồn can đảm biết sống theo các giới răn và sự xấu xa của tội lỗi. Nhưng điều quan trọng là: tất cả giáo lý phải nhằm tác tạo những động lực đích thực, bằng cách làm cho trẻ ý thức:

 

1). Phẩm chất người Kitô hữu để sống xứng đáng với phẩm chất ấy.
2). Thiên Chúa yêu thương ta và ta phải đáp lại bằng việc tôn thờ và vâng phục Người.

 

2. Thực hành Cầu nguyện (X. Sư Phạm Cầu Nguyện.tr.51)
Mỗi bài giáo lý đều dẫn đến gặp gỡ thân mật với Chúa qua cầu nguyện, nên:
GLV tha thiết mời các em đọc kinh trong lớp học cho sốt sắng. Hãy dạy cho chúng hiểu lời kinh chúng đọc. Hãy giải thích rành mạch từng tiếng, từng câu để tránh thói đọc máy móc. Hãy cho các em tự viết ra vài kinh, bạn sẽ thấy nhiều điều ngạc nhiên!
Dạy các em biết cầu nguyện bằng tâm hồn, cầu nguyện không cần bản kinh. Hãy diễn tả thái độ của em nhỏ muốn bày tỏ cho người mẹ biết nhu cầu của mình, rồi dạy các em biết tín nhiệm và phó thác nơi Chúa và thưa chuyện với Chúa cách đơn sơ, thành thật như em nhỏ trong tay người mẹ. Hãy dạy trẻ lời nguyện vắn tắt.

 

GLV hướng dẫn cầu nguyện theo ý chính của mỗi bài giáo lý.
- Chẳng hạn sau khi nói với các em về những vật xinh tốt Chúa đã tạo dựng, hãy bảo các em cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúng con ngợi khen sự khôn ngoan Chúa, chúng con ngợi khen quyền phép Chúa”.
- Sau khi cắt nghĩa một giới răn, hãy thêm vào một lời cầu nguyện xin ơn sống theo giới răn ấy.
Trước khi cầu nguyện, GLV hãy mời trẻ đứng lên và cầm trí lại trong vài giây để ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa.<

 

Bài 15. SƯ PHẠM CÂU HỎI
Một trong những phương pháp giúp học viên hiểu sâu xa được nội dung bài học, đó là biết cách đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi.
Thần học gia Karl Rahner xác quyết rằng: những câu hỏi tốt là dấu hiệu về sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta. Đức tin lớn lên được là nhờ việc đặt vấn đề, thăm dò và tìm hiểu.

 

I. ÍCH LỢI CỦA CÂU HỎI
1. Về tâm lý, giáo dục: Đặt câu hỏi,
Là bắt đầu hiểu một phần vấn đề, cần tìm hiểu sâu hơn.
Là thái độ cởi mở, thắng vượt e lệ, lãnh đạm, để trao đổi.
Là xác định bản lãnh của mình: có ý nghĩ riêng, đối chiếu quan điểm.
Là phương pháp tìm hiểu tâm tính và kiểm tra kiến thức.

 

2. Về loan Tin mừng:
Chúa Giêsu đáp lại những câu hỏi của mọi hạng người:
Thầy ở đâu ? Ông có phải là Đức Kitô ?
Tôi phải làm gì để được sống đời đời ?
Chính Chúa Giêsu cũng dùng câu hỏi để dẫn người nghe đến chân lý: “Các con bảo Thầy là ai ? Anh có tin con người không ?”

 

II. CÁC LOẠI CÂU HỎI
1. Câu hỏi về sự kiện: Đây là câu hỏi để bảo đảm kiến thức chính xác về những sự kiện quan trọng:
Thí dụ: “Bí tích là gì ? Có bao nhiêu bí tích?”

Những câu hỏi này được đặt ra để nắm vững về những sự kiện cơ bản, kiểm tra kiến thức.

 

2. Câu hỏi về ý nghĩa: Từ một câu chuyện, một định nghĩa, một sự kiện, ta đặt câu hỏi “Điều nầy có ý nghĩa gì ?”.
Câu hỏi này nhằm hiểu biết dư luận, tìm ý kiến về một vấn đề. Nó mời gọi đi sâu vào sự kiện đức tin và đời sống, hơn những kiến thức hời hợt.

 

3. Câu hỏi về giá trị: Nhằm gợi lên những suy nghĩ sâu xa và cụ thể của từng cá nhân:
Thí dụ: “Các bí tích có ảnh hưởng gì đến bạn ? Bạn có thường xuyên lãnh Bí tích không, và nó giúp ích gì cho bạn ?”.

Câu hỏi loại này có tính cách cá nhân, nên cần tôn trọng và tuỳ theo sự nhạy bén, đừng ép phải trả lời loại câu hỏi này. Cần tạo bầu khí tin tưởng, sẽ dễ dàng trao đổi kinh nghiệm sống.

 

4. Câu hỏi về cùng đích cuộc đời: Loại này liên quan đến đời sống và đụng chạm đến những huyền nhiệm của sự sống con người, niềm tin công giáo.
Thí dụ: “Bí tích cho thấy gì về sự sống và sự chết ? Đâu là điều thiện, điều ác ? Đâu là hạnh phúc đích thực ?”

Đây là những câu hỏi đụng chạm về chiều sâu cảm nghiệm và niềm tin. Có thể khó trả lời cách trôi chảy. Những câu trả lời tốt nhất thường do sự suy tư trầm lắng, niềm tin phó thác và sự cầu nguyện khiêm tốn.

 

5. Ngoài ra, còn có câu hỏi lạc đề: do học viên đưa ra, thiếu xác tín và ngoài vấn đề học hỏi. Lý do?
Có thể vì nhiều lý do: chán học, mệt, muốn giải trí, bài học xa thực tế, không gây thích thú.

 

III. CÁCH ĐẶT CÂU HỎI CHO HỌC VIÊN
Để giúp học viên suy nghĩ và thảo luận, có 4 cách đặt câu hỏi:

1. Tránh nêu câu hỏi “đóng” , vì câu trả lời chỉ là: Có hoặc Không.

 

2. Bình thường, nên đặt câu hỏi chung cho cả lớp, trước khi hỏi riêng từng cá nhân. Điều này nhằm mời gọi cả lớp cùng suy nghĩ.

 

3. Có thể đặt câu hỏi trong nhiều dạng khác nhau: Vd: đặt câu hỏi với chính người hỏi, hoặc với cả lớp, hoặc dùng thơ văn, tranh ảnh, truyện kể, phim truyện hoặc những hoạt động sáng tạo khác.

 

4. Đừng hài lòng những câu trả lời hời hợt, đòi hỏi phải suy nghĩ sâu.
Lưu ý cách đặt câu hỏi về ý nghĩa và giá trị, đó là một kỹ năng quan trọng cho việc dạy học có chiều sâu.

 

IV. THÁI ĐỘ CỦA GLV TRƯỚC NHỮNG CÂU HỎI
1. Tiếp nhận câu hỏi với thiện cảm:
Trước hết, tỏ ra thái độ cởi mở, tiếp nhận, thái độ biết lắng nghe và biết lưu tâm đến thắc mắc và giá trị của người khác.
Không nên trả lời vội vã. Nên đào sâu câu hỏi và tìm gặp tâm tư của người đặt câu hỏi. Về mặt sư phạm: Câu trả lời tốt không phải là câu trả lời nhanh, nhưng là lời giải đáp mà trẻ cảm thấy vui, vì nhận thấy phát xuất từ đáy lòng GLV.

 

2. Không nên trả lời hết mọi câu hỏi:
Cần nắm vững nguyên tắc sư phạm: GLV chỉ nên trả lời 2 loại câu hỏi sau đây:
- loại có liên quan đến đa số học viên,
- loại tạo nên sự hiểu biết thêm về chân lý mạc khải.

 

Cần tập trẻ suy nghĩ cẩn thận trước khi đặt câu hỏi, và đặt những câu hỏi liên quan đến tập thể.
GLV cũng phải biết hạn chế câu hỏi để tránh lạc đề quá xa. Vì có một số câu hỏi không thể nào thoả đáp:
Thí dụ: Tự do của con người, Tri thức của Thiên Chúa, Tiền định.. .
- Cho trẻ thấy giới hạn của trí tuệ con người.

 

Nếu câu hỏi ngoài vấn đề, nhưng lại quan trọng và ích lợi cho đa số, tính sao?
- Nếu đa số thích thú muốn được giải đáp, và nếu đủ giờ, thì nên trả lời. Còn nếu đa số dửng dưng, hoặc GLV chưa suy nghĩ kịp, hay không đủ giờ, thì hẹn lại lần sau, hoặc trả lời riêng.

 

3. Giải thích thêm và gạn lọc câu hỏi:
Có những câu hỏi mà trẻ đặt ra cách vụng về, thiếu mạch lạc, khó hiểu: GLV hãy gạn lọc, phân tích, sắp xếp cho gọn, dễ hiểu và giúp cho cả lớp thấy tầm quan trọng của vấn đề.
GLV nên gợi ý: “Em định nói gì, thử tóm ý của em... Em hiểu chữ X theo nghĩa nào ? Em có thể cho một ví dụ cụ thể... Có phải ý em muốn nói là ...”

 

V. CÁCH GIẢI ĐÁP TỪNG LOẠI CÂU HỎI
Trước khi trả lời, GLV cần phân định câu hỏi thuộc loại nào, và tìm lời giải thích ứng cho mỗi loại.

 

1. Câu hỏi đặt vấn đề về giá trị:
Vd: “Tại sao Giáo Hội buộc dự Thánh lễ ngày Chúa nhật ?”
Loại câu hỏi này do thiếu kiến thức: không biết hoặc không biết đủ. Để trả lời loại này, ta cần phải có kiến thức và biết thông truyền kiến thức.

 

2. Câu hỏi gợi lên mầu nhiệm:
Thí dụ: Nếu Thiên Chúa tốt lành, tại sao có sự ác? hoặc “Thiên Chúa biết mọi sự, Ngài biết tôi được cứu rỗi, vậy tôi đâu còn Tự do ?”
Đây là loại câu hỏi đưa đi rất xa, vì liên quan đến mầu nhiệm đức tin. Để giải đáp, không thể chứng minh trực tiếp bằng kiến thức, lý luận, vì là những mầu nhiệm, nên con người không đủ khả năng thấu hiểu như Chúa.
GLV cần phải uốn nắn những thành kiến, ngộ nhận nếu có. Hãy đem những kinh nghiệm sống, những chứng từ trong cuộc sống, trong Giáo hội cho thấy đã khắc phục khó khăn. Giúp cho trẻ hiểu: một cuộc sống trung tín trong đức tin và cầu nguyện, dần sẽ giải toả được những khó khăn mà trí khôn không thể thấu triệt. Có thứ hiểu biết bằng tâm hồn nhờ ánh sáng của của đức tin, của Chúa Thánh Thần.

 

3. Câu hỏi lạc đề:
Tìm lý do xuất phát câu hỏi, có thể : vì nhàm chán, muốn giải trí, bài không thích thú, xa lạ..
GLV tránh đừng rơi vào “bẩy” của học viên, không nên trả lời, nếu thấy đùa giỡn, câu giờ. Nhắc cho biết là lạc đề, nhưng sẽ trả lời sau, nếu muốn. Cũng có thể hỏi ngược lại: “Em định trả lời sao ?”, GLV cũng kiểm điểm lại cách dạy, trình độ, sở thích, có thích hợp với trẻ không !

 

Kết: Hãy sử dụng tốt Phương pháp đặt Câu hỏi và trả lời Câu hỏi, Bạn sẽ thành công nhiều trong nhiệm vụ Giáo dục đức tin cho trẻ.

 

Bài 16. SƯ PHẠM CẦU NGUYỆN
“Mọi giờ giáo lý đều hướng đến Cầu nguyện và Phụng tự”. Cầu nguyện được xem là đỉnh cao của bài Giáo lý. Vậy huấn luyện việc cầu nguyện là điều rất cần thiết trong giáo lý, cần cho GLV lẫn học viên.

 

I. THÁI ĐÔ KHI CẦU NGUYỆN
1. Thái độ thụ tạo: Mọi sự, kể cả bản thân ta đều do Chúa tác tạo, yêu thương: nên thái độ chúng ta là tôn thờ, ca tụng, biết ơn Chúa. Cần khơi dậy tâm tình thờ lạy và vui tươi khi cầu nguyện với trẻ.

 

2. Thái độ người con: Nhờ Chúa Giêsu, ta được trở nên con Thiên Chúa. Tâm tình của người con là yêu mến, kính trọng, vâng phục, phó thác vào Cha, như tâm tình của Chúa Giêsu.

 

3. Thái độ tội nhân: Tin vào Thiên Chúa là Cha, Đấng giàu lòng thương xót, nhân từ, và khao khát ơn cứu rỗi, ta cầu xin tha thứ tội lỗi và sống tinh thần sám hối.

 

II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ CẦU NGUYỆN
1. Đặt mình trước sự hiện diện của Chúa:
Vì cầu nguyện là “gặp gỡ” và “nói chuyện” với Chúa, nên cần ý thức sự hiện diện của Chúa, tập trung vào Chúa.

 

2. Có gì để nói với Chúa:
Cầu nguyện không chỉ là đọc vài kinh cho xong, mà còn cần có vài điều riêng tư trong lòng để nói với Chúa: chúc tụng, cám ơn, xin lỗi, xin ơn.

 

3. Lắng nghe tiếng Chúa nói:
Đây là điều thường bị “bỏ quên”. Cần phải lắng đọng tâm hồn, trong bầu khí tôn nghiêm, kính cẩn, tự do, trầm tĩnh, mới có thể nghe tiếng Chúa. Tiếng Chúa : đó chính là “lời nói trong lương tâm”, từ “những câu Kinh Thánh đã biết” thôi thúc, ai ủi, khích lệ ta làm lành, lánh dữ...

 

4. Tâm hồn biến đổi: vì tin mình được Chúa lắng nghe, và biến đổi lòng mình để thực thi ý Chúa, có niềm vui và an bình sau khi cầu nguyện.

 

III. DẠY TRẺ CẦU NGUYỆN
1. Chính GLV hãy trở nên người cầu nguyện: cầu nguyện nhiều trong suốt cuộc sống, và nuôi dưỡng tâm tình cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc…

 

2. Thái độ GLV khi dạy cầu nguyện: Cần phải giúp trẻ tin Chúa hiện diện để cầu nguyện. Cách tốt nhất để giúp trẻ TIN: là thái độ trang nghiêm “Như thấy Đấng vô hình” của chính GLV. Vì thế, GLV không thể giúp trẻ cầu nguyện trong thái độ: giận dữ, dò xét, doạ nạt, lo ra, lếu láo... Hãy bộc lộ nét trang nghiêm, tôn kính trong lúc cầu nguyện. Nếu cần sửa lỗi trẻ đang chơi giỡn, thì chờ đến khi đã cầu nguyện xong.

 

3. Tập cho trẻ cầu nguyện theo diễn tiến:
1. Đặt mình trước mặt Chúa.
2. Gợi lên tâm tình: thờ lạy, cảm ơn, xin lỗi, xin ơn.
3. Tìm lời và cử chỉ thích hợp (theo bài học) để diễn tả tâm tình.
4. Dạy cho trẻ biết cầu nguyện liên lĩ:
- Luôn nhớ Chúa.
- Dâng ngày cho Chúa. Dâng mỗi việc làm cho Chúa.
- Biết dùng những lời nguyện tắt...

 

IV. CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN TRONG GIÁO LÝ
Tuỳ bài học, lứa tuổi, hoàn cảnh mà GLV thích ứng các hình thức cầu nguyện, để tránh nhàm chán.

 

1. Lời nguyện tắt: Là lập đi lập lại tên “Giêsu” cách chậm rãi, âm thầm, hoặc câu ngắn gọn như:

“Lạy Chúa, xin thương xót con”.
“Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”.
“Giêsu, Maria, Giuse mến yêu, xin thương cứu các linh hồn”

 

2. Lặp lại lời nguyện: GLV đọc lớn từng câu ngắn, trẻ lập lại lớn tiếng (hoặc đọc thầm) từng câu: Vd: Lạy Chúa Giêsu, (Trẻ lặp lại) - Chúa đang ở giữa chúng con, (...) Chúng con tin Chúa yêu thương chúng con

 

3. Gợi lên một tâm tình, một đề tài, rồi trẻ tự cầu nguyện theo tâm tình ấy.

Thí dụ: Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta. Ngài ban cho chúng ta có cơm áo, nhà ở. TC tốt lành. Các em hãy ca ngợi và cảm ơn Chúa đi.

 

4. Cầu nguyện theo kiểu “Đáp ca”, hay kiểu “Kinh cầu”.

5. Cầu nguyện theo kiểu Chủ sự, cuối lời nguyện, tất cả thưa Amen.

6. Đọc kinh thường, nhưng đọc chậm, chú ý lời đọc: Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh, Đọc Thánh vịnh...

7. Cầu nguyện bằng bài hát: hướng ý trước về tâm tình, rồi hát lên.

 

V. CÁCH SOẠN MỘT LỜI NGUYỆN
Đôi khi GLV cảm thấy lúng túng khi soạn một lời nguyện chung cho hay, cho đúng, cho cân đối...
Dựa theo mẫu những Lời nguyện Phụng vụ của Giáo hội, ta thấy cấu trúc lời nguyện có gồm 5 phần:

 

1. Nêu danh xưng: Lạy Chúa, Lạy Chúa Giêsu, Lạy Chúa Thánh Thần, Lạy Mẹ Maria...

2. Lý do xin ơn: Thường dựa vào Lời Chúa, việc Chúa làm, hay từ biến cố cuộc sống.

3. Diễn tả nội dung: Muốn xin ơn gì ?

4. Chủ đích xin ơn: Xin ơn đó để làm gì? Theo 2 chủ đích
Lợi ích con người bản thân, gia đình, xã hội, giáo hội..
Làm vinh danh Chúa.

5. Kết thúc: Trông cậy Chúa ban ơn, vì công nghiệp Chúa Kitô...

 

Một lời nguyện mẫu
Lạy Chúa (nêu danh Chúa), Chúa không muốn kẻ có tội phải hư mất, nhưng muốn họ hối cải được sống (Lý do). Xin cho những người đang lìa xa Chúa, được nghe tiếng Chúa kêu mời trở lại trong mùa Chay thánh này (Nội dung). Để họ được hương nhờ ơn cứu rỗi của Chúa (cđ1) và làm sáng tỏ lòng nhân hậu hay tha thứ của Chúa (cđ2). Chúng cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con (Kết). Amen.

 

Kết: Cần thiết huấn luyện cầu nguyện. Lời cầu nguyện cần được phát xuất từ tấm lòng khiêm nhường, chân thành và đơn sơ, để nói với Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa và vâng theo ý Chúa.

 

Bài 17. SƯ PHẠM CHUYỆN KỂ
I. LÝ DO KỂ CHUYỆN TRONG GIÁO LÝ
Bài giáo lý được trình bày theo lối Qui Nạp thường dùng một câu chuyện cụ thể để làm khởi điểm, rồi dựa vào câu chuyện ấy để trình bày đề tài giáo lý. Chính Chúa Giêsu thường áp dụng đường lối giảng dạy này.

 

Ngoài ra, chúng ta còn có những lý do sau:
Ai cũng thích nghe kể chuyện. Đó là lý do hiển nhiên mà bạn thấy nơi chúng ta, dù già hay trẻ.
Các câu chuyện làm đời sống phong phú hơn. Nó như những mảng đời sống, giúp ta mở rộng tầm hiểu biết, từ đó ta khám phá những cái hay đẹp đang diễn ra hằng ngày.
Câu chuyện giúp ta biết được mình là ai. Qua một câu chuyện, nhờ đồng hoá với các nhân vật câu chuyện, như vui với điều tốt, vượt qua thử thách, có những tâm sự hay kinh nghiệm riêng tư... ta tìm được con đường, bài học thích hợp cho mình.
Câu chuyện gây hứng khởi và cổ võ. Khi nghe nội dung, tình tiết câu chuyện: như thiện thắng ác, lòng can đảm, tính trung thực, đức bác ái, gương anh hùng ... tự nhiên nội tâm ta hứng khởi, muốn hành động theo gương những nhân vật trong truyện.

 

II. PHÂN LOẠI CHUYỆN KỂ
Ta có thể phân chia chuyện kể thành 4 thể loại:

 

1. Chuyện Thánh Kinh
Trong Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước có rất nhiều câu chuyện để giúp các trẻ hiểu biết LSCĐ. Những chuyện này dùng để trình bày giáo lý rất tốt và thích hợp nhất, nhờ tính chất và nội dung tôn giáo của nó, cũng như để thông truyền kiến thức Thánh Kinh cho trẻ.

Thí dụ: Tạo dựng Ađam - Evà; Cain và Abêlê; Lửa cháy bụi gai; Vượt Biển Đỏ...

 

2. Chuyện Lịch sử Giáo Hội và Hạnh các Thánh.
Đây cũng là kho tàng chứa đựng nhiều câu chuyện để trình bày các đề tài Giáo lý. Tuy nhiên, cần trung thực, nên tránh những chi tiết ly kỳ, huyền thoại, phi lịch sử có thể làm hại đức tin cho trẻ sau này. Nên chọn lựa kỹ lưỡng, trình bày khéo léo và ứng dụng hợp lý.

Thí dụ: Cuộc đời thánh Phaolô, Hạnh Thánh Augustinô, Phanxicô Assisi, Xaviê, Têrêsa Hài đồng, Mẹ Têrêsa Calcuta...

 

3. Chuyện Dụ ngôn, chuyện Đời xưa.
Đây là kho tàng văn hoá dân gian, qua lớp áo văn chương, chuyện dụ ngôn được tiềm ẩn một bài học sâu sắc, cần khám phá để áp dụng vào đề tài giáo lý. Khi chọn lựa dụ ngôn, ta cần hiểu rõ được giá trị ẩn dụ để sự áp dụng được kết quả tốt đẹp, không gượng ép, lạc đề.

 

4. Chuyện đời thường hay thời sự
Những chuyện xảy ra hàng ngày, những biến cố thời sự cũng có thể làm khởi điểm để giúp suy nghĩ và dẫn vào đề tài Giáo lý. Tuy nhiên việc lựa chọn loại chuyện này khó hơn, cần hội đủ 2 điều kiện:
+ Có thích hợp hay không có mâu thuẫn với chủ đề giáo lý.
+ Có thể chuyển mạch từ câu chuyện sang đề tài giáo lý cách dễ dàng, không gượng ép, giả tạo.

 

III. GIÁ TRỊ CHUYỆN KỂ
Chuyện kể là con đường chạy thẳng vào tâm hồn, trí tưởng tượng và bản năng của con người.
Chuyện kể là phương tiện truyền đạt chân lý lịch sử -Văn hoá - Tôn giáo... để nâng cao kiến thức, mang tính giáo dục, giải trí, thư giãn.
“ Con người có thể đối kháng chống lại một chân lý, nhưng họ không thể Kháng cự lại một câu chuyện... khoảng cách ngắn nhất giữa con người và chân lý là một câu chuyện.” (Anthony de Mello)

 

IV. NGUYÊN TẮC CHỌN và SỬ DỤNG CHUYỆN KỂ
Có 4 nguyên tắc quan trọng:

1. Lên chương trình cẩn thận: Câu chuyện được chọn phải ăn khớp với chủ đề và mục tiêu của mỗi bài học, cũng như phải thích hợp với hoạt động và nhịp điệu tiến triển của lớp Giáo lý.

 

2. Chọn chuyện hợp tâm lý lứa tuổi. Mẫu giáo, nhi đồng: Truyện thú vật, cổ tích, thần tiên, có âm điệu, hò hát.

Thiếu niên 10-13: Truyện phiêu lưu, viễn tưởng, anh hùng, truyền thống.

Tráng niên 13-18: Truyện dũng cảm, thiên nhiên, có chất thơ, vần điệu.

 

3. Chuẩn bị kể chuyện cẩn thận. Cần đọc trước câu chuyện mà bạn muốn sử dụng. Tìm thấy cái hay, cái đẹp, ý nghĩa của câu chuyện. Nếu bạn không cảm thấy hứng thú, hay cảm thấy không có gì sâu sắc trong chuyện kể, thì các trẻ cũng sẽ cảm thấy thế, nên đừng chọn.

 

4. Đừng “lên lớp”. Hãy kể chuyện như là chuyện, đừng vội nhấn mạnh đến những điểm chính hoặc tính cách luân lý của câu chuyện. Tốt hơn, nên để các trẻ nói cho bạn biết câu chuyện nói gì về cuộc sống và về chúng.

 

V. NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN
Kể chuyện là nghệ thuật để truyền thụ kiến thức, để minh hoạ bài học thêm dễ hiểu, dễ nhớ. Nó là một kỹ năng cần thiết của Giáo lý viên, của nghề Quản trò. Vì thế, cần thiết phải nghiên cứu và sáng tạo Nghệ thuật Kể chuyện.

 

1. Chuyện kể hay, phải có các yếu tố:
Có nội dung hay và tình tiết hấp dẫn: có đối thoại, mô tả, gợi cảm.
Cảm hứng ngay từ đầu và có kết thúc linh hoạt, không dài dòng.
Liên quan đến người nghe: rút được bài học, dẫn đến chân lý.

 

2. Người kể chuyện hay, và hấp dẫn, cần phải:
Thích câu chuyện và muốn người khác nghe.
Nắm vững kết cấu việc kể chuyện.
Chuẩn bị chuyện kể cách chu đáo.
Biết thay đổi giọng nói cho phù hợp với tình tiết: nói rõ và chậm, nói to - nhỏ - vừa... có thể bắt chước giọng nói, điệu bộ thích ứng với nhân vật trong chuyện.

 

3. Kết cấu việc kể chuyện : gồm 5 giai đoạn
1. Giao đãi: giới thiệu, dẫn nhập, khởi đầu câu chuyện.
2. Thắt nút: lúc có vấn đề, có mâu thuẫn, có xung đột, gây khó chịu, thắc mắc.
3. Phát triển thắt nút : đẩy mâu thuẫn lên cao, bằng những tình tiết hấp dẫn, gây cấn.
4. Cao trào: Mâu thuẫn đạt đỉnh cao, cần thiết phải gây thách đố cách giải quyết.
5. Mở nút: giải quyết vấn đề, kết cục. Rút ra bài học liên hệ cuộc sống.

 

4. Luyện tập kể chuyện
a). Chuẩn bị chuyện kể
Chọn truyện thích hợp người nghe, liên quan vấn đề muốn truyền đạt.
Đọc truyện nhiều lần, thạo lời nói và động tác câu chuyện.
Nhớ động tác kế tiếp, những điểm gay cấn, những hình ảnh.
Thử kể chuyện trước gương, làm cử chỉ phù hợp lời nói.
Giọng nói bình dị, chậm rãi, trầm tĩnh, trực tiếp.
Ghi dàn bài, nhớ những điểm then chốt.

 

b). Khi kể chuyện
Quên hết mọi việc, chỉ cần biết câu chuyện và người nghe.
Tiếng nói đủ nghe, đủ lớn, đừng quá cao, quá đều.
Lời nói của nhân vật trong truyện phải phát biểu rõ ràng.
Khi tới điểm gay cấn, phải kết mau lẹ, đừng đặt câu hỏi và tán rộng ý nghĩa luân lý, sẽ làm mất hứng thú nghe chuyện.
Kể truyện cách vui vẻ, hào hứng, vì sự hăng say của người kể có sức truyền cảm cho người nghe.
Khi có những lời nói, tình tiết then chốt cần nhấn mạnh, ngưng một chút.
Cần sự tham gia của thính giả: hết chuyện đứng lên ho to: Hạ màn, Chấm dứt.

 

c). Bí quyết dẫn đến thành công:
Biết mình có chuẩn bị.
Tin rằng mình sẽ làm được việc.
Nhìn cử toạ như là những người về phe mình, bạn mình.
Biết cách hít thở để tăng dưỡng khí, bớt hồi hộp.

 

BÀI TẬP
1. Chọn một truyện, rồi xem xét đâu là thắt nút, cao trào và mở nút.
2. Thực tập kể rõ 1 câu chuyện từ 2 đến 3. Lưu ý việc phát âm: tròn vành, rõ chữ. Kể thật rõ lời và tránh đứt quảng sai chỗ.
3. Tập kể chuyện, lưu ý có đối thoại, có cử điệu và bắt chước giọng nói của từng nhân vật. (Lưu ý cử điệu diễn tả cho người lớn khác cử điệu cho tuổi thiếu nhi).

 

Bài 18. CỬ HÀNH TRONG GIÁO LÝ
Chúa Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra và nói: “Này là Mình Ta ban cho chúng con, hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. (1Co 11,24)

 

Nhập: Chủ đích của Giáo lý là hướng dẫn con người gặp gỡ và hiệp thông thân mật với Chúa; là giúp con người lắng nghe tiếng Chúa nói, tiếp nhận Lời Chúa và quyết tâm dấn thân thực hành trong cuộc sống. Với chủ đích đó, việc cử hành mang ý nghĩa và là đỉnh cao trong giờ Giáo lý.
Vì thế, GLV cần biết tổ chức giờ cầu nguyện, trong hay ngoài (hoặc kết thúc) giờ giáo lý, được gọi là Cử hành.

 

I. ĐỊNH NGHĨA
Cử hành, đó là thực hiện chung việc tưởng niệm một biến cố cứu độ.

 

Thực hiện: Đó là một hành động, một việc xảy ra, trong không gian và trong thời gian riêng biệt, bởi những cử chỉ và lời nói, đồ vật và cử động.

 

Chung: gồm một nhóm người. Đó chính là Giáo hội cử hành, cho dù chỉ là một số ít thành viên của Giáo hội.

 

Tưởng niệm: Có sự qui hướng về quá khứ, về lịch sử đã xảy ra trong thực tế. Nhưng cái riêng của việc tưởng niệm là hiện tại hoá kinh nghiệm đã được hình thành trong quá khứ. Một sự hiện tại hoá như thế hướng về tương lai và xác nhận một hứa hẹn: cái đã xảy ra trong quá khứ và nay được hiện tại hoá, sẽ được hoàn hảo trong lịch sử tiếp tục.

 

Biến cố cứu độ: đó là việc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người trong lịch sử. Mỗi biến cố trong lịch sử Israel đều hướng về sự sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, được tiếp tục kéo dài trong lịch sử Giáo hội. Đĩnh cao của tất cả mọi cử hành, chính là Chúa Kitô Phục sinh, hiện thực hoá trong mầu nhiệm Thánh thể.

 

II. HAI YẾU TỐ HÌNH THÀNH VIỆC CỬ HÀNH
Cấu trúc của một việc cử hành rất đơn giản. Tất cả được tổ chức quanh 2 thực tại: cộng đoàn và biến cố cứu độ.

 

1. Cộng đoàn hiện diện:
Bởi sự hiện diện thể lý của những con người trong cùng một một Nơi chốn, một thời gian.
Bởi sự hiệp thông tinh thần của những người tham dự. Hình thành sự hiệp thông này, chính là mục đích của giai đoạn đón tiếp và tập trung ý hướng.
Bởi sự tham gia tích cực của tất cả mọi người, bộc lộ bề ngoài của sự hiệp thông tinh thần.
Bởi sự nhắm đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cộng đoàn.
Bởi sự biểu lộ mối liên hệ của cộng đoàn với Giáo hội (có sự hiện diện của linh mục hay một thừa tác viên ).

 

2. Biến cố cứu độ được trình bày.
Bởi Lời Chúa được loan báo và thực hiện.
Bởi một hay nhiều cử chỉ biểu tượng diễn tả nội tâm.
Bởi sự đón nhận trong đức tin từ lời Chúa và từ những cử chỉ.
Bởi sự tuyên xưng đức tin và kinh nguyện tự phát.

 

III. CẤU TRÚC VIỆC CỬ HÀNH
Ta cò thể trình bày cấu trúc và diễn tiến sinh động của việc cử hành:
Quá khứ
Biến cố cứu độ
Hiện tại
Tụ họp và Chuẩn bị
Lời Chúa và Đáp trả
Sai đi
Đón tiếp Ý hướng
Cử chỉ biểu tượng Đức tin Vào thế giới
- - - Được triệu tập - - - - Cộng Đoàn - - - được canh tân và sai đi - - -

 

IV. CHUẨN BỊ và TỔ CHỨC THÀNH CÔNG
1. Chuẩn bị cho một việc cử hành bao gồm:

 

1. Xác định cộng đoàn và hoàn cảnh cụ thể.
2. Dự kiến những cách thế để cộng đoàn tham dự sốt sắng.
3. Xác định biến cố cứu độ sắp được cử hành.
4. Dự kiến những cách thế để làm cho biến cố hiện thực và biểu thị cho cộng đoàn.
5. Dự kiến sự tiếp nối sinh động của tất cả những biến cố trong một tiến trình cụ thể.

 

2. Hai nguyên tắc căn bản để một cuộc cử hành thành công:
1. Trong việc cử hành, tất cả phải được biểu đạt: Không gian, đồ vật, lời nói, sự thinh lặng, sự chuyển động: mỗi dữ kiện góp phần tạo nên một thế giới hợp nhất cho cảm nghiệm biểu đạt.
2. Tất cả phải được biểu đạt bởi chính nó: Những thông báo và huấn lệnh sẽ được báo trước một cách ngắn gọn. Không nên giải thích hay chú giải dài dòng, làm mất đi sự biểu trưng của cuộc cử hành. Chỉ chấp nhận bài giảng rõ ràng, trực tiếp, xem như thành phần chính yếu của việc cử hành.

 

V. BỐN GIAI ĐOẠN CỦA VIỆC CỬ HÀNH
1. Bước Vào: Vào cuộc cử hành, tức là rời xa những gì cản trở để chuẩn bị cho việc gặp gỡ Chúa: Thay đổi nơi chốn, hoàn cảnh, thân thể.
Nghi thức mở đầu: bài hát, nghe nhạc, chiêm ngắm hình ảnh, thinh lặng chung, hình thành vòng tròn, nắm tay, làm cuộc rước... Vấn đề là sắp xếp, chuẩn bị sẵn sàng để gặp gỡ Chúa.

 

2. Lắng nghe Lời Chúa : Chọn bản văn ngắn gọn, hay một đoạn Phúc âm với 1 hay nhiều người đọc. Có thể tiến hành theo 2 phần :
Công bố Lời Chúa.
Đáp trả Lời Chúa, bằng việc nghe hay đọc chung, hát chung 1 Thánh vịnh, Thánh ca.

 

3. Dấn thân: Việc lắng nghe Lời Chúa thôi thúc hành động: một sự thay đổi, một sự hoán cải, được đánh dấu trong việc cử hành. Có thể thực hiện những việc sau :
Lời nguyện tự phát hay lời nguyện chung.
Làm dấu Thánh giá chậm rãi, dâng hoa, đốt nến và dâng nến...
Đọc kinh Lạy Cha trong cử điệu (giang tay). Thông thường, Kinh Lạy Cha để kết thúc phần này.

 

4. Sai đi: GLV cần làm cho mọi người hiểu rằng việc cử hành được kết thúc bằng một nghi thức sai đi:
Bằng một lời kinh Chúc lành và sai đi truyền giáo, sống đạo.
Bằng một bài hát kết thúc, một cuộc rước ra về. Nhờ nghi thức này, mọi người nhận ra việc họ vừa cử hành cần được sống trong cuộc sống thường ngày.

 

Bài 19. PHƯƠNG PHÁP DẠY CÁC GIỚI RĂN
I. MỤC ĐÍCH
Mục đích việc dạy các Giới răn là làm sao cho bạn trẻ biết giữ luật Chúa trong tinh thần của Chúa Kitô, tinh thần tự do của con cái Thiên Chúa.
Nền tảng của sự tự do này xây trên sự kiện là: chúng ta đã được tái sinh vào một đời sống mới.
Người Kitô hữu giữ luật Chúa không vì sợ, nhưng do lòng yêu mến sâu xa đối với sự thánh thiện, vì “Lòng yêu mến Chúa đã được rót vào tâm hồn chúng ta đã lãnh nhận” (Rm 5,5). Lòng yêu chuộng sâu xa đối với sự thiện là đặc điểm của con người đã được cứu chuộc; những kẻ tuân theo sự hướng dẫn của Thánh linh Chúa là con cái Chúa.. (Rm .8,14).

 

Theo nghĩa này, Chúa đã hứa: “Ta sẽ in luật ta vào tư tưởng sâu thẳm của chúng và khắc vào tâm khảm chúng”. (Jer.31,33). Đây chính là điểm khác biệt của luân lý Kitô giáo với Cựu Ước.
“Giữ luật bề ngoài thôi chưa đủ, điều quan trọng là phải phát xuất do lòng yêu mến sâu xa đối với luật Chúa, cùng với tâm hồn trong sạch”.
Chúa Giêsu đã nhấn mạnh nhiều vào sự khác biệt này: “Chúng con đã nghe.. nhưng Ta, Ta bảo chúng con...” (Mt 5,17-6,24). Người còn chống với bọn Pharisêu giả hình, vụ hình thức mà quên cốt lõi. Sự giảng dạy của chúng ta phải hợp với tinh thần Chúa Kitô.

 

II. BA TRỞ NGẠI GÂY HIỂU LẦM
1. Phần lớn, GLV dạy các giới răn để chuẩn bị cho các em Xưng tội. Điểm này hay làm cho ta có khuynh hướng coi các giới răn như một bản thống kê những đường lối người ta có thể phạm đến Chúa.

 

2. Nếu chỉ coi các giới răn như một bản kê khai các thứ tội, là một bản ghi những điều cấm, người ta dễ có cảm tưởng đó là một thứ gò bó nặng nề, ngăn cản không cho con người tự do hưởng thú vui! Điều này làm nguy hại trẻ hơn cả những cuộn phim, những hài kịch ca tụng nết xấu và cười nhạo nhân đức, dẫn đến việc xem người sống đời lương thiện chỉ là người hèn nhát, không dám phá bỏ vòng quy ước trói buộc; bạn trẻ hổ thẹn vì phải sống lương thiện, tuân theo luật!

Vậy, GLV phải đập tan quan niệm sai lầm trên và nên tuyên dương người thực hành nhân đức là người cường tráng, can đảm và cao thượng, còn nết xấu là cái gì yếu đuối, hèn nhát, đê tiện, ích kỷ.

 

3. Nhiều người còn có quan niệm sai lạc về tự do. Họ tưởng tự do là buông theo mọi ước muốn ngông cuồng. Tự do thật là tài năng chọn lựa làm theo điều tốt. Lựa chọn sai lầm là một khuyết điểm của tự do. Tội bao giờ cũng là kết quả của nô lệ tình dục hay nô lệ dốt nát.

 

III. ĐỀ NGHỊ PHƯƠNG PHÁP DẠY GIỚI RĂN
Dạy các giới răn thế nào để gợi lòng yêu mến điều thiện.

 

1. Trước khi giải thích từng giới răn, hãy nhấn mạnh về phần Chúa truyền dạy lề luật như thế nào.
Các giới răn là một phần của ý muốn toàn năng mà Thiên Chúa hoạt động trong khắp vũ trụ. Với ý muốn ấy, Chúa hướng dẫn các vì sao và các nguyên tử; Chúa làm cây cỏ mọc lên và sinh hoa kết quả; Chúa cai trị thế giới loài vật qua các bản năng của chúng. Chỉ có con người là được quyền lựa chọn hoặc theo hoặc chống lại ý Chúa. Nhưng con người không được tự do thoát ly hậu quả do sự lựa chọn ấy: hoặc tình thân ái của Chúa, hưởng hạnh phúc trên trời, hoặc án phạt đời đời trong hoả ngục. Lương tâm con người là khả năng nhận biết luật Chúa, hướng dẫn ta làm lành lánh dữ, Chúa đã đặt vào linh hồn ta, nên GLV cần thiết huấn luyện lương tâm ngay chính.

 

Mười giới răn đã được tuyên bố cách long trọng, là một bản tuyên cáo rõ ràng luật Chúa đã in trong tâm hồn con người. Chính Chúa Kitô đã củng cố và hoàn tất luật ấy.
Nhấn mạnh vào hai giới răn trọng đại gồm tóm mọi giới răn khác: đó là Kính Chúa Yêu người. Đức Ái là căn bản cho đời sống Kitô hữu.

 

2. Tiến trình dạy mỗi giới răn:
a. Bắt đầu bằng cách nêu rõ sự kiện nền tảng của giới răn.
b. Diễn tả những hành vi mà những sự kiện ấy đòi hỏi.
c. Dẫn giải bằng gương Chúa Giêsu.
d. Chỉ rõ các tội cần xa tránh.

 

Ví dụ:
1). Khi giảng về giới răn thứ nhất và trọng nhất: “Con hãy yêu mến Thiên Chúa là Chúa con bằng tất cả trái tim”, GLV hãy gợi lại các sự kiện trong tâm trí:
Sự lệ thuộc tuyệt đối của ta vào Chúa, Đấng đã ban cho ta sự sống mới từng giây phút.
Ta cần đến Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa.
Vì tính cách cao trọng của nhân phẩm, con người không thể thoả mãn với những hạnh phúc thấp hèn.

 

Chu toàn giới răn là sống theo những sự kiện này:
Giới răn thứ năm: Kính trọng sự sống bản thân và sự sống tha nhân.
Sự kiện: Chúa đã dựng nên loài người giống hình ảnh Chúa (St. 9,6). Chúa đã cho chúng ta tham dự vào cuộc sống Người. Mỗi thiệt hại gây cho tha nhân là gây thiệt hại cho hình ảnh Chúa.

 

3). Giới răn thứ sáu:
a. Về tình nghĩa vợ chồng (giải thích sao cho các em đã biết cũng như chưa biết có thể hiểu sự truyền sinh). Chúa muốn cho người cha và người mẹ luôn luôn hợp nhất để Chúa trao phó con cái cho họ và vạch cho chúng thấy mối tương quan giữa cha mẹ như thế nào. Đối với các trẻ lớn hơn, bạn có thể dẫn chứng qua việc hôn nhân trần thế đến hình ảnh sự kết hợp cao cả của Chúa Giêsu với Giáo Hội.

 

b. Qua những lời giảng giải, GLV hãy dạy trẻ biết tôn trọng thân xác và những khả năng lạ lùng Chúa đã đặt trong thân xác. Thân xác phải như một mãnh vườn rào kín và được canh giữ để trưởng thành và giữ luôn mầu trong sạch. Được hiến dâng trong phép Thánh Tẩy, thân xác trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần, nên chi thể Chúa Kitô, và đáng được chung phần vinh quang với Chúa Kitô Phục sinh.

 

IV. VÀI Ý KIẾN VỀ DẠY LUÂN LÝ.
Luân lý không phải một môn phải học thêm, còn hơn thế, luân lý giúp bạn trẻ sống một đời lương thiện và hạnh phúc.
Quy tắc ghi nhớ: “Hãy chú ý vào bạn trẻ hơn vào cuốn sách”. Khi dạy Giáo lý Công giáo, GLV phải trao một sứ điệp của Chúa; khi dạy luân lý ta hãy giúp bạn trẻ hiểu những chân lý liên hệ đến ý nghĩa cuộc đời, đã in vào tâm hồn mỗi người và ta có thể nhận ra bằng suy luận. Nhiệm vụ của GLV là làm sáng tỏ những lý tưởng ấy nơi trẻ, hơn là đề ra một lý thuyết có uy thế.

 

Lớp luân lý sẽ trở nên một niềm vui sướng cho GLV nào biết ý thức rằng: mình đang làm thoả mãn một khát vọng chính đáng đang được thức tỉnh trong tâm trí học sinh; và kinh nghiệm cho ta thấy rằng chính các học viên tỏ ra rất hâm mộ và thành thật biết ơn GLV, người đã trở thành bạn và người hướng dẫn đầy hiểu biết, cảm thông.
Mới đây một cuộc điều tra về vấn đề dạy luân lý đã được thực hiện trong một số trường ở An Độ, qua đó, ta biết đại đa số học sinh khát mong được hướng dẫn và khuyến khích luân lý.

 

1. Ước vọng cầu nguyện: Trong số 785 học sinh trung học và cao đẳng không Kitô giáo, có tới 93% nói rằng họ cầu nguyện hằng ngày và nhiều người tỏ ý mong muốn được chỉ dẫn để cầu nguyện xứng đáng hơn, để thực hành sự kết hợp với Chúa. Phần lớn học sinh mong muốn GLV dạy họ không những biết đọc kinh hôm kinh mai, kinh ăn năn tội, kinh dâng mình; nhưng còn biết cách cầu nguyện với Chúa tự đáy lòng mà không cần bản kinh; biết ngợi khen và cảm tạ Chúa, biết cầu xin sức mạnh và ơn soi dẫn trong mọi thử thách và khó khăn.

Kinh nghiệm chứng tỏ rằng nguyên một việc dạy cách nhận biết Chúa trong mọi trong mọi vật quanh ta và thuật sống luôn kết hợp với Chúa bằng cách thanh tẩy tâm trí và làm mọi việc để phụng sự Chúa và vì danh Chúa, cũng rất được hâm mộ.

Trong môn luân lý, nếu gợi trong họ lòng tin tưởng yêu mến Chúa và giúp họ thói quen cầu nguyện tha thiết với Chúa để xin ánh sáng và sức mạnh, thì đáp ứng mong ước.

 

2. Ước vọng được giúp sống lương thiện
Trong những năm cuối cùng trung học, học sinh thấy rõ những khuynh hướng tốt và xấu đang lẫn lộn trong họ. Điều quan trọng đối với GLV là phải ý thức rằng mình có một kẻ đồng minh, nên phải biết lợi dụng cơ hội để gây liên lạc trong tâm hồn bạn trẻ. Làm sao cho họ biết hãnh diện vì đã sống lương thiện, thành thật, bác ái và trong sạch, đó là điều tối quan trọng. Hãy kể những câu chuyện hay, những gương sáng để giúp bạn trẻ cảm nhận sức hấp dẫn của nhân đức.

 

3. Ước vọng được nghe chuyện và xem tranh ảnh
Nhiều học viên phàn nàn rằng giờ Giáo lý buồn tẻ vì phải học thuộc lòng những câu hỏi và những câu trả lời. Trình bày, giải thích và áp dụng là một đường lối hiển nhiên phải theo. Nhưng nên biết, thành công của việc dạy giáo lý phần lớn lệ thuộc ở những sự kiện hình ảnh và câu chuyện mà bạn đem sử dụng. Chứng lý của bạn sẽ hấp dẫn và truyền cảm nhiều hay ít, tuỳ hình ảnh bạn trình bày.

 

4. Ước vọng phụng sự người nghèo và dân tộc
GLV nên gây ý thức trách nhiệm xã hội nơi thế hệ trẻ. Đa số bạn trẻ cho biết ước nguyện chính của họ là làm việc để nâng cao mức sống của gia đình nghèo, kiện toàn công cuộc kiến thiết quê hương. Đây là một nền móng vững chắc để chúng ta xây dựng. Điều quan trọng là phải tránh rao giảng một thứ luân lý quá vị kỷ. Hãy dạy nền luân lý công bằng bác ái Chúa Kitô.

 

KẾT: Là GLV, Bạn có nhiệm vụ rất quan trọng trong Giáo Hội và xã hội, đó là Giáo dục đức tin, hướng dẫn luân lý, góp phần phát triển và thăng tiến con người cho thế hệ tương lai. Thế hệ tương lai có sống lương thiện hay không, phần lớn nhờ vào sự giáo dục luân lý của Bạn.
Hãy ý thức và thi hành chu đáo sứ vụ: giảng dạy và làm chứng.

 

Bài 20. GIÁO LÝ BẰNG KINH THÁNH
I. Soạn bài
II. Giảng Dạy: Tiến trình 5 bước
III. Đọc Kinh Thánh: 4 giai đoạn

 

I. SOẠN BÀI
Soạn bài là khâu quan trọng trong việc dạy giáo lý. Trước khi lên lớp, GLV cần biết mình phải nói gì, truyền đạt ra sao, theo thứ tự nào cho thích hợp, để các em có thể lĩnh hội. Thành công, kết quả tốt của một giờ dạy giáo lý, tuỳ thuộc phần lớn vào việc soạn bài kỹ lưỡng.
Để soạn bài chu đáo, GLV cần làm 2 bước:
- Chuẩn bị chất liệu.
- Sắp xếp nội dung.

 

A. Chuẩn bị chất liệu:
Tìm hiểu kỹ bài sắp dạy, để nắm vững nội dung phải truyền đạt. Cần đọc kỹ đoạn KT sắp dạy, nên ghi lại: Ý chính, ý phụ; mục đích của bài; tâm tình nào cần được khơi dậy; từ ngữ nào, câu nào khó hiểu, bài học tâm linh, nhân bản nào rút ra.
Cầu nguyện: Cầu xin CTT soi dẫn cho biết cần truyền đạt những gì. Nên tìm giờ thuận tiện để cầu nguyện bằng những chất liệu đã soạn (ý chính, tâm tình). Nên cầu nguyện cho học viên của mình.
Tìm phương pháp truyền đạt hiệu quả: Tìm và chuẩn bị những giáo cụ: bản đồ, hình ảnh, câu chuyện, bài hát và tìm cách diễn tả, minh hoạ nội dung sao cho các em thích thú và dễ tiếp thu.

 

B. Sắp xếp nội dung (Soạn Giáo án)
Có thể gọi đây là bước lên lớp bằng bút. Mỗi bài dạy nên ghi:
1 Ngày tháng. Tựa bài.

 

2. Nội dung những điều sẽ trình bày:
Lời Chúa: Số trích đoạn KT của bài học.
Ý chính, ý phụ.
Tâm tình.
Giáo cụ để minh hoạ.

 

3. Những câu hỏi đáp của bài học, những từ ngữ cần giải thích hoặc cần nhấn mạnh.
4. Trọng tâm của đoạn Kinh Thánh.
5. Bài học tâm linh, quyết tâm sống Lời Chúa.
6. Bài học nhân bản phù hợp.

 

II. Giảng Dạy: Tiến trình 5 bước
Xin giới thiệu tiến trình của một giờ giáo lý Kinh Thánh (Theo CT.GL.PT). Gồm 5 phần chính:

 

1. Mở đầu (10 phút)
Cầu nguyện đầu giờ
Kiểm tra bài cũ,
Giới thiệu bài mới.

 

2. Nghe Lời Chúa (5)
Dẫn vào Lời Chúa.
Công bố Lời Chúa

 

3. Hiểu Lời Chúa (25)
GLV giải thích những chữ khó hiểu.
Thảo luận: chia tổ và thảo luận theo các câu hỏi gợi ý để tìm ý nghĩa và trọng tâm của đoạn Kinh Thánh. Sau đó nộp bản đúc kết, và kiểm tra theo hình thức thi đua.
Lời Chúa dẫn đến bài học: GLV tổng kết các câu trả lời, tóm lược và ghi bài học.

 

4. Sống Lời Chúa (10)
Bài học tâm linh: Đây là phần quyết tâm sống Lời Chúa, cụ thể trong đời sống thường ngày. GLV có thể đúc kết cả bài học trong một vài câu ngắn gọn để giúp các em dễ nhớ và sống trong tuần.
Chứng từ: gương các thánh: GLV có thể dùng một mẫu gương trong cuộc đời các vị thánh để củng cố thêm bài học.
Cầu nguyện cao điểm: Từ bài học trên, GLV rút ra ý cầu nguyện và giúp trẻ cầu nguyện với cả tấm lòng. Đây là lúc trẻ đáp trả những gì đã được biết thêm về Chúa, về tình yêu Chúa cho mình. Có thể cầu nguyện tự phát.

 

5. Kết thúc: (10)
Các chỉ dẫn về nhân bản: khai triển các ý trong bài để lồng vào bài học nhân bản phù hợp.
Bài tập về nhà, tìm hiểu đề tài tuần sau. Cầu nguyện kết thúc.

 

PHƯƠNG PHÁP
ĐỌC KINH THÁNH BẰNG 4 GIAI ĐOẠN
(Trích dịch: Voyages à travers la Bible)
Có nhiều cách đọc và học Kinh thánh. Xin giới thiệu một tiến trình học hỏi Kinh Thánh dành cho Thanh thiếu niên bằng 4 giai đoạn:

1 - Tạo bầu khí lắng nghe.
2 - Đón nhận bản văn Lời Chúa.
3 - Khám phá bản văn.
4 - Nội tâm hoá bản văn.

Bốn giai đoạn nầy được liên hệ mật thiết với nhau và mọi giai đoạn đều có tầm quan trọng đặc biệt. Ta không thể lướt nhanh hoặc bỏ qua một giai đoạn nào.

Mục tiêu sư phạm: Phương pháp này mời gọi cả thầy lẩn trò cùng khám phá bản văn, thấm nhuần Lời Chúa, tiến đến sự cầu nguyện và hoán cải.

 

Mỗi giai đoạn đều có những gợi ý Sư phạm thực hành.
1. Tạo bầu khí lắng nghe
Mục tiêu: mở ra con đường dẫn đến bản văn.
Các trẻ không luôn dễ dàng và sẵn sàng đón nhận và làm việc trên bản văn Kinh Thánh. Vì thế, nên tạo điều kiện ước muốn và chú ý lắng sẵn sàng nghe, ngõ hầu trẻ có thể vui vẻ đón nhận bản văn.

 

Phương pháp sư phạm:
- Kể một phần bản văn và bảo trẻ tưởng tượng phần kế tiếp.
- Mời gọi gợi nhớ bản văn.
- Trao một bản văn với những chữ, những câu còn thiếu (điền vào chỗ trống).
- Khởi đầu bằng việc đặt câu hỏi về một nhân vật hay những từ ngữ của bản văn.
- Cho những thông tin về bản văn : ngáy tháng, bối cảnh xã hội...
- Rọi hình, hay trình bày một bức tranh gợi nhớ bản văn.

 

2. Đón nhận bản văn
Mục tiêu: Chuẩn bị tiếp nhận tốt bản văn
Lời Chúa, là chính Chúa tự hiến cho con người. Điều quan trọng là tỏ cho trẻ biết rằng Kinh Thánh cần được đón nhận như là ân ban của Chúa. Vì thế, ta cần trình bày bản văn Lời Chúa cách long trọng và trang trọng.

 

Phương pháp sư phạm:
- Đề nghị thực hiện trang giấy có bản văn trình bày đẹp, thoáng, sạch, trang trí màu sắc.
- Trang trí quyển sách, trong đó có bản văn sắp đọc.
- Tạo bầu khi thinh lặng để lời Chúa vang dội tâm hồn.
- Đọc bản văn, làm cho đọc tốt hơn nhờ: đọc nhiều, trên nền nhạc, lặp lại vài chữ, vài câu như tiếng vang (echo). Vừa đọc vừa dán những câu đã viết sẵn lên bảng.
- Đọc với việc phân chia các vai nhân vật trong bản văn.

 

3. Khám phá bản văn
Mục tiêu: Khảo sát bản văn và thấm nhuần bao nhiêu có thể.
Càng làm việc nhiều trên bản văn, thì bản văn càng cho ta nhiều tư tưởng, lời nói. Khi ta thấm nhuần bản văn, ta càng khám phá sự đa nghĩa và nhận ra nhiều điều mới từ sứ điệp Tin Mừng.

 

Phương pháp sư phạm
- Ghi ra những nhân vật, sự vật, hành động, sự di chuyển, lời nói...
- Thực hiện một sơ đồ, diễn tiến câu chuyện.
- Khám phá cấu trúc bản văn.
- Khảo sát bản văn khi đối chiếu với những bản văn khác.
- Cho tựa đề bản văn.

 

4. Nội tâm hoá bản văn
Mục tiêu: hiện tại hoá bản văn để cầu nguyện, để hoán cải.
Đây là lúc làm cho giờ học, giờ đọc Kinh Thánh trở thành giờ Giáo lý, lúc làm cho Lời Chúa được vang dội nơi mỗi cá nhân. Cả GLV lẩn học viên đều được mời gọi để sám hối, canh tân và cầu nguyện.

 

Phương pháp sư phạm
- Tạo khoảng không gian, bầu khí trang nghiêm để nội tâm hoá.
- Kể lại bản văn đã khảo sát.
- Viết lại bản văn với những hình ảnh, sự kiện của thời nay (tân biên).
- Chia sẻ suy tư, cầu nguyện, chiêm niệm, ý tưởng cá nhân.
- Quyết tâm hành động, thực hiện dấn thân, đổi mới.
- Lưu giữ những tác phẩm: hình vẽ, bản văn, lời nguyện, bài hát, vần thơ đã thực hiện.

 

Bài 21. SƯ PHẠM HÌNH ẢNH
I. TRANH ẢNH TRONG GIÁO LÝ
Ngày nay, tràn ngập hình ảnh quảng cáo: trên đường, trong nhà, phòng thông tin, phòng họp được minh hoạ, trang trí bằng tranh ảnh. Lý do: học nhờ nhìn hơn là nghe. Nghiên cứu cho biết: 83% những điều chúng ta học là nhờ mắt. Còn Khổng Tử nói: “Trăm nghe không bằng mắt thấy”.
Tranh ảnh nghệ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo rất quan trọng trong việc sử dụng để dạy Giáo lý. Nó là cánh cửa dẫn vào tâm hồn người học những huyền nhiệm sự sống và thông truyền đức tin.

 

1. Nguyên tắc căn bản sử dụng tranh ảnh
Chọn lựa cẩn thận: Dùng hình chụp, ảnh đẹp, trong tạp chí, quảng cáo, lịch treo tường ... để hấp dẫn người xem, kích thích tình cảm và làm cho người xem phải suy nghĩ sâu hơn về sự sống và niềm tin. Hãy sưu tập ảnh đẹp.
Nghiên cứu trước khi sử dụng:
Ngắm nhìn tranh ảnh, xem xét thật kỹ:
- ghi nhận những phản ứng đầu tiên,
- suy nghĩ vấn đề đã thấy,
- tưởng tượng ra cách sử dụng chúng.

 

Cách Dạy Giáo lý bằng tranh ảnh:
Chia sẻ và diễn tả ấn tượng về tranh ảnh :
Hãy nhìn xem tranh ảnh trong vài phút, rồi đặt câu hỏi :
- Em thấy gì nơi bức tranh ?
- Em thích gì nơi bức tranh ?
- Đìều gì đang xảy ra trong bức tranh ?
- Bức tranh muốn nói lên điều gì ?

Kế đến, em hãy ghi nhận những chi tiết và ý nghĩa của chúng: Màu sắc nóng, lạnh? Đường nét thẳng, cong, ngang, dọc; toàn cảnh, nhân vật
Từ tranh ảnh đến con người
Từ tranh ảnh dẫn đến phản ứng người xem tranh, dần dần hướng về cái nhìn cuộc sống thực tế của mình.

 

Vd:

- Có khi nào em cảm thấy điều đó không ?
- Em có hành động, có sống giống như thế chưa ?
- Bức tranh nói gì về thái độ và giá trị của những người cùng tuổi?
Có thể viết lại câu chuyện từ tranh ảnh, đã xảy đến cho em...

 

Từ tranh ảnh đến cầu nguyện và hành động:
Suy tư, chia sẻ về tranh ảnh sẽ giúp nhận thức sâu xa về Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày.
- Hãy nhớ câu Kinh Thánh có liên quan đến tranh ảnh.
- Hãy đáp trả Lời Chúa với lời cầu nguyện.
- Hình ảnh thôi thúc ta dấn thân hành động thế nào?
Hình ảnh giúp suy niệm, thúc đẩy hành động: đó là áp dụng vào giáo lý.

 

2. Vài đề nghị sử dụng tranh ảnh
Vài phương pháp sử dụng tranh ảnh trong giờ giáo lý:

- Trình bày: Treo tranh ảnh để lôi kéo sự chú ý vào đề tài bài học, tạo sự tò mò, duy trì chú ý, và tập trung vào bài học.
- Chủ đề: Để các em viết chủ đề cho tranh không lời. Tìm câu Kinh thánh phù hợp chủ đề, hay đưa ra câu Kinh thánh, rồi tìm tranh ảnh phù hợp.
- Sưu tập tranh ảnh: đưa tạp chí, rồi cho các em tìm ảnh nào phù hợp với đề.
- Sáng tác câu chuyện: từ tranh ảnh, yêu cầu các em viết kể bằng lời hay diễn kịch...
- Cắt dán, báo tường: Cho các em cắt lấy hình hay-đẹp, dán chung trên bảng thông cáo, để trình bày sứ điệp, về ngày lễ.. .
Tặng ảnh: dịp sinh nhật, lễ vui, tặng mỗi người một hình đạo.

 

3. Phương pháp Đọc Tranh ảnh
Hình, ảnh, phim: đó là những chọn lựa điều mà tác giả muốn trình bày. Hình ảnh là một trang viết về quan điểm, cái nhìn và ý hướng của tác giả. Đọc hình ảnh là khám phá những khía cạnh được tác giả trình bày và giá trị sứ điệp tác giả muốn gởi gắm.
Tiến trình Đọc tranh ảnh: gồm 4 bước (BÀI TẬP.tr.108):

 

1). Thành phần hình ảnh: Bạn thấy gì nơi tranh ảnh?
Hình ảnh, gồm mấy phần, mấy người và vật, hoạ tiết theo những đường nét ngang-dọc, cong-nghiêng,
Nhân vật: bao nhiêu người, hình dạng ra sao: chân-tay, mặt-mày, dáng vẻ.
Ánh sáng nhiều hay tối, màu sắc nóng hay lạnh:
- màu nóng: đỏ, cam, vang, nâu; - màu lạnh: xanh, tím, ve.
Khung ảnh (Plan): rộng-hẹp chứa đựng người- cảnh - vật -chi thể (mỗi khung ảnh có ý nghĩa riêng. Tr.109)

 

2). Hình ảnh cho con người: Hình ảnh đánh động gì nơi bạn?
Hình ảnh đánh động giác quan của bạn như thế nào ? Như sờ, nếm, ngửi, nghe, thấy: khô - ướt; nóng - lạnh; cứng - mềm; trơn - nhám.
Các đồ vật, nhân vật, cử chỉ hành động nào mang giá trị biểu tượng cho nhóm, tôn giáo, văn hoá dân tộc nào ?.. . Nói lên ý nghĩa gì chung cho mọi người ?
Tình cảm hay cảm xúc nào gợi lên cho bạn từ hình ảnh?

 

3). Hình ảnh cho Giáo lý: Ứng dụng vào đề tài Giáo lý ?
Tìm câu Kinh thánh, dụ ngôn Phúc âm nào có thể nảy sinh từ hình ảnh?
Hình ảnh gởi đến cho thời nay sứ điệp gì? Hoà bình, nạn đói, thiên tai...
Hình ảnh đành động tâm tình tôn giáo nào ? Tin, cậy, mến, chúc tụng, hân hoan.

 

4). Hình ảnh cho bài học: Thực hành cầu nguyện và dấn thân phục vụ.
Hình ảnh nhắc nhớ gì cho con người ? Vd: lao động, chia sẻ, yêu thương...
Mang lại giá trị và tương quan đạo đức như thế nào ? Vd: xây hoà bình, chống chiến tranh...
Gợi ý cầu nguyện cho vấn đề gì ?: Cầu nguyện theo Lời Chúa, về...
Mời gọi dấn thân hành động thế nào cho bản thân, gia đình, Giáo hội, xã hội?

 

II. VẼ TRONG GIÁO LÝ
Một trong những điều làm học sinh thích thú, đó là Vẽ tranh. Thế giới ngày nay dường như con người thích vẽ hơn trước kia, vì nền văn hoá ngày nay thuộc về thị giác và màu sắc. Vì thế, Vẽ cũng có giá trị trong Giáo lý.

 

1. Tại sao phải vẽ ?
Vẽ để bộc lộ và diễn tả tâm tư, kinh nghiệm, cảm xúc.
Vẽ để phát huy trí tưởng tượng, năng khiếu thẩm mỹ.
Vẽ để phản ánh suy tư: diễn tả điều minh biết - tin hơn bằng lời.
Vẽ để tự do chia sẻ tâm tư và cảm xúc, tạo ra những cảm thức mang tính cộng đồng.
Vẽ để khuyến khích cầu nguyện và hành động.

 

2. Vẽ trong giờ Giáo lý
Cốt yếu là ý nghĩa và cảm xúc, chứ không là kỹ thuật.
Diễn đạt tự nhiên: nét, màu, lớn, nhỏ, tưởng tượng.
Khuyến khích vẽ chung: từng cặp, trên bảng hoặc giấy lớn.
Khen nỗ lực: giúp thực hiện khả năng diễn tả.
Trưng bày và ứng dụng: sử dụng vài ảnh cho những chủ đề kế.

 

3. Vài loại hình Vẽ trong Giáo lý
Vẽ kinh nghiệm: Vẽ những gì thấy được trong cuộc sống.
Vd: “vẽ thế giới của bạn”, thêm chút hài hước như phim hoạt hình.
Vẽ chuyện Kinh thánh: để minh hoạ hiểu biết mới về Kinh Thánh.
Vẽ biểu tượng hoặc Nghi thức phụng vụ: Vd: vẽ về BT Thánh thể có ý nghĩa thế nào: sách, đèn, chén lễ, bánh, chim câu...
Vẽ một cảm xúc hay niềm xác tín: Vẽ cô đơn, bỏ rơi, được yêu.
Vẽ bích hoạ: có tính cách quảng cáo, diễn tả niềm xác tín, như: “Cho thì vui hơn nhận”, hoặc “xây dựng hoà bình”.
Vẽ trang trí: vào dịp lễ vui, trang trí thiệp chúc mừng, bảng, tập vở.

 

4. Nét vẽ Minh Hoạ Giáo lý
GLV tập vẽ nét đơn sơ để minh hoạ bào giáo lý: vẽ bảng, vẽ tập, vẽ báo.
GLV sưu tập nét vẽ đơn sơ, đẹp, thoáng để sử dụng khi cần thiết.

 

III. PHIM ẢNH TRONG GIÁO LÝ ẢNH HƯỞNG CỦA PHIM ẢNH TRONG THỜI ĐẠI. THÁI ĐỘ ĐỐI DIỆN VỚI TRUYỀN THÔNG
1. Lược đồ về Truyền thông, trên nhiều lãnh vực
- Tác phẩm: Phim, vidéo, bài hát, truyện kể, tiểu thuyết, kịch..
- Thực tế Tp: tác giả chọn lựa, gạn lọc, sắp xếp, để nói lên chủ đề.
- Người nhận: chỉ thấy điều đã gạn lọc, dàn dựng theo ý tác giả.
Lưu ý: về sự sai biệt giữa thực tế trên phim và thực tế cuộc sống.

 

>2. Đọc Phim ảnh
Phim ảnh là thứ ngôn ngữ nghe nhìn. Cần phải biết cách “đọc”:
Đọc phim ảnh: là nói lại điều mình nghe - thấy.
- Là diễn tả: là chấp nhận cái mình thấy, hình ảnh là chính nó.
- Là hiểu: cái nhìn trí tuệ: ảnh được cấu tạo thế nào ? Ý nghĩa gì ?
- Là bước vào đối thoại: chia sẻ cảm nhận từ hình ảnh, với những giá trị phim ảnh, nét hài hoà hay nghịch lý.
Đối thoại: - Với thái độ tôn trọng.
- Đón nhận ý kiến và cảm xúc của người khác.
- Những tiêu chuẩn cá nhân về vấn đề: bỏ hay chấp nhận.
Vấn đề thảo luận:
- Tôi đã thấy gì qua phim ảnh ?
- Phân tích điều đã nghe, đã thấy.
- Sử dụng “Chìa khoá đọc Phim” để nhận ra ý hướng tác giả dựng phim.

 

3. Chìa khoá để đọc Phim Vidéo
1. Xem phim lần 1, ghi lại những đoạn chính, nơi và đồ vật có ý nghĩa ?
2. Đặt tên những nhân vật chánh, và nói về đặc tính của họ.
3. Nhân vật hay đối tượng nào được nhấn mạnh ?
4. Nhịp điệu hình ảnh nhanh chậm ?
5. Kiểu “plan” nào sử dụng nhiều nhất : chân dung, toàn diện, toàn cảnh ? Kiểu di động máy quay đặc biệt ? (Xem tr.109)
6. Những thái độ, nơi chốn, đồ vật, lời, nhạc, vay mượn từ những nền văn hoá, tôn giáo khác nhau ?
7. Vấn đề ghi âm: Tiếng động môi trường, âm nhạc: Có vai trò thế nào ? Có người kể (voix off) ?
8. Nếu phim Kinh Thánh: đọc bản văn tương ứng trong Kinh Thánh, có sáng chế lời, nơi, nhân vật, hành động ?
9. Sự phân tích này giúp chúng ta khám phá điều gì ? Sản phẩm và ý hướng tác giả ?
10. Có thể sử dụng tác phẩm này dịp nào ? Lời khuyên nào cho người sử dụng ?

 

4. Dạy GIÁO LÝ GIỚI TRẺ bằng phim Vidéo
1). Tiêu chuẩn chọn lựa phim vidéo:
- Nội dung: vidéo nói vấn đề gì ? Như thế nào ?
- Chất lượng kỹ thuật: ảnh đẹp, âm thanh rõ, tình tiết trình bày tốt
- Sự thực hiện: ai thực hiện, giả tưởng, phóng sự, quan điểm;
- Thời gian: tuỳ buổi dạy, tuỳ vấn đề, lý tưởng là 15-20 phút
- Tác động cảm xúc: rất quan trọng về thẩm mỹ và đạo đức.

 

2). Ba bước thực hành Dạy giáo lý bằng phim:
Bước 1: Chuẩn bị cho nhóm trẻ nghe và nhìn: Tạo nên thích thú để xem, để trao đổi và để tranh luận. Hãy giới thiệu vài nét về phim : tựa đề, tác giả, nhà sản xuất, ngày phát hành, mục đích , chủ đề. Hãy mời trẻ lưu ý (chia nhóm) những : tình tiết (cấu trúc), nhân vật, lời nói, âm thanh, hình ảnh.. .

 

Bước 2: Phản ứng sau khi đã nghe và thấy : Sau khi xem phim lần 1, hãy để thời gian cho trẻ lắng đọng, cảm nhận và nói lên những gì đã nghe và thấy . Xem lần 2, (có thể ghi lại những điều nghe thấy) và nói ra phản ứng tự phát về những cảm xúc hay tình cảm của mình.

 

Bước 3: Hiểu, cử hành, làm chứng: Đây là bước chính yếu của việc dạy giáo lý. Tuỳ theo loại tài liệu, sẽ có những hướng khác nhau:
- Nếu là phim Kinh Thánh: So sánh bản văn Kinh Thánh với cảnh nghe thấy trong phim. Sau khi suy nghĩ, sẽ đến bước tham gia buổi cầu nguyện và thực hành dấn thân trong cuộc sống.
- Nếu là phim Chứng nhân đức tin: Hãy mời trẻ suy nghĩ về cách sống đạo mà họ vừa khám phá qua phim ảnh: những nét hay. Học được gì qua chứng từ trên phim ? Có thể diễn tả và thực hiện cách sống mới tốt hơn phim ?
- Nếu là phim Phóng sự về một vấn đề, hoàn cảnh; giai đoạn kế tiếp có thể diễn tả phản ứng từng người và cùng nhau khám phá ra điều cần học tập, sự thay đổi cần thiết như phim đã đề nghị.

 

Bài 22. SINH HOẠT GIÁO LÝ
I. SINH HOẠT GIÁO LÝ
Sinh hoạt Giáo lý là những thể loại hoạt động trong Giáo lý, nhằm chủ đích giúp cho các học viên vận dụng các cơ năng như trí tưởng tượng, óc thẩm mỹ, sáng tạo, khéo léo... để cụ thể hoá bài học, giúp hiểu sâu hơn bài giảng, ghi khắc vào trí nhớ và diễn tả bên ngoài, chứ không không nhằm chủ đích giải trí. SHGL còn giúp cho GLV kiểm điểm hiệu quả giảng dạy và mức độ tiếp thu của học viên.

 

Vì thế, GLV nên tránh sự lạm dụng, đừng để cho giờ giáo lý quá "vui nhộn" đến nỗi mất tính chất tôn giáo, trang nghiêm, hoặc cứ lo “Sinh hoạt” mà lấn át thời giờ hay quên mất nội dung giảng dạy.
Xin giới thiệu vài thể loại Sinh hoạt Giáo lý nhằm gợi ý và hướng dẫn thực hiện. GLV tuỳ nghi thực tập và ứng dụng vào giờ giáo lý, miễn sao cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và với chủ đích của bài giáo lý.

 

II. PHÂN LOẠI
A. Theo tổ chức:
1. Sinh hoạt do một người làm thay cả lớp
2. Sinh hoạt theo từng nhóm
3. Sinh hoạt chung cả lớp.

 

B. Theo thể loại:
1. Vẽ, cắt dán giấy, làm panô.
2. Ca Hát, Cử điệu Băng reo
3. Trò chơi, Đố vui, sưu tầm.
4. Hoạt cảnh, Kể chuyện. Thảo luận nhóm

 

C. Theo vị trí và thời gian
1. Trong lớp, trong giờ giáo lý.
2. Trong phòng, ngoài giờ giáo lý.
3. Ở nhà: sưu tầm, phóng sự, tìm tòi...

 

1. CA HÁT TRONG GIÁO LÝ
1. Giá trị bài hát
Bài hát có thể dùng trong việc giảng dạy như một phương tiện sư phạm sinh động và có hiệu quả cao.
Bài hát có khả năng chuyển tải ý nghĩa một chủ đề giáo dục nhân bản, hoặc một bài Giáo lý.
Bài hát còn nhanh chóng gầy dựng được bầu khí vui tươi cho một tập thể, tránh sự nhàm chán không phân biệt lứa tuổi.

 

2. Cách chọn bài hát
Bài hát được chọn dùng cần phải :
Phù hợp với chủ đề cần giới thiệu.
Phù hợp với lứa tuổi của đối tượng tham dự.
Phù hợp với loại hình ( Sinh hoạt, Thánh ca)
“ Hãy hát được bài hát ấy một cách thành thạo trước khi tập lại cho người khác. Nếu được, nên thuộc lòng bài hát”.

 

3. Phương pháp Tập hát
Có nhiều cách, uyển chuyển thay đổi cho phù hợp với từng loại bài, có thể chọn một trong những cách dưới đây hoặc phối hợp chung:

 

1). Hát trước bài hát ấy 2, 3 lần cho mọi người nghe quen tai. Sau đó tập lại từng câu.
2). Tập lại từng câu một, đồng thời minh hoạ rõ các cử điệu đi kèm với câu ấy.
3). Chép trọn vẹn cả bài hát lên bảng. Sau đó tập hát và xoá dần đi từng câu cho đến khi hết bài
4). Vừa hát vừa giải thích từng câu của bài hát một cách lý thú và sinh động.
5). Chia phe hát đuổi nếu là các bài hát được sáng tác theo dạng bài canon (Các câu có thể chồng lên nhau mà vẫn khớp về hoà âm và hài thanh)

 

4. Cách Đánh nhịp
Chỉ cần giữ nhịp cho rập ràng nhịp nhàng là đủ.
- Nếu là nhịp 2/4 hoặc nhịp 4/4 thì chỉ cần nhịp mạnh đánh xuống và nhịp yếu đánh lên là đủ để giữ nhịp.
- Nhịp 2/4 và 4/4 cũng còn có thể đánh theo dạng đường vòng như số 8 nằm ngang.
- Nếu là nhịp 3/4 thì cứ đánh theo hình Tam giác cân.

 

2. SÁNG TÁC CỬ ĐIỆU BÀI HÁT
1. Bài hát có Cử điệu
Là bài hát ngắn, có kèm theo các cử chỉ và dáng điệu đơn giản, để diễn tả nội dung từng câu, từng ý trong bài hát.

N.B: Có loại Bài hát suông, Bài hát có vỗ tay, Bài hát có động tác, Bài hát có vũ điệu.
Nhờ các cử điệu, người hát bộc lộ các nhân đức và tâm tình vào bài hát như: xác tín, phó thác, yêu mến, diễn tả lòng tri ân, sự kính trọng, vui tươi, vâng phục, hồn nhiên...

 

2. Chuẩn bị
Về bài hát : chọn bài ngắn, câu cân phương, 4 hoặc 8 câu, có âm vận, ý tứ dễ thương, theo nhịp 2/4 hoặc 3/4 nhẹ nhàng.
Cử điệu kèm theo: Mỗi câu chỉ chọn 1 hoặc 2 cử điệu đơn giản, theo nhịp. Thường sử dụng các ngón tay, bàn tay, cánh tay, phối hợp chân bước nhịp, di chuyển, hài hoà ánh mắt, nét mặt.
Về hình thể: vòng tròn cho sinh hoạt ngoài trời ; bán cung cho nghi thức, cầu nguyện, tĩnh tâm, có thể ngay trong lớp với các bàn ghế ...
Về Linh hoạt viên : nên hát mẫu kèm theo cử điệu mẫu, cách chậm rãi và rõ ràng, sau đó tập nháp và làm chính thức. Có thể giới thiệu sơ về ý nghĩa bài hát trước hoặc đang khi tập.

 

3. Kỹ thuật diễn xuất
GLV cần có nhiều sáng kiến, biến báo, sâu sắc mới dễ dàng chọn, sáng tác và thể hiện cử điệu đúng ý nghĩa, cân đối, duyên dáng. Cần lưu ý:

 

1. Thống nhất đầu - cuối: nhanh - chậm, Dí dỏm - Trang trọng, Sôi nổi - Dịu dàng, sao cho hợp với bài hát. Có thể kết hợp tiếng hô - hò - băng reo để tạo bầu khí sinh động.
2. Thống nhất Thứ tự: Trái - Phải : tay trái, chân trái trước, phải làm sau. Thượng - Hạ. Tiền - Hậu, vòng Ngoại - Nội.

 

3. SÁNG TÁC CÂU HÒ với THƠ LỤC BÁT
1. Câu hò trong Giáo lý
Hò là loại hình sinh hoạt rất gần gũi, đơn sơ, rất phổ biến, nhưng lại đầy tính văn hoá và nghệ thuật của dân tộc Việt nam.
Chỉ cần đôi câu Lục “Bát, vài câu Hò” Hụi, khi được một người khởi xướng có thể nhanh chóng gây bầu khí vui tươi, phấn khởi.
Bài giáo lý, Lời Chúa, có thể đúc kết thành đôi câu Lục– Bát, được xướng lên, sẽ giúp học viên ghi nhớ bài học, làm cho bài dạy được sinh động.

 

2. Luật thơ Lục-Bát
2 Nguyên tắc Cơ bản:
1). Luật Bằng-Trắc: (B) - (T)
Thông thường : . . . B . . . T . . . B,
. . . B . . . T . . . B . . . B.
Tình yêu Thiên Chúa cao vời,
Hiến ban Con Một, cứu người trần gian

 

Bất thường : . . . T . . . B . . . B,
. . . B . . . T . . . B . . . B.
Khi chén rượu, khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.

 

2). Luật gieo vận, một nguyên tắc bắt buộc:
Từ cuối câu 6 ăn vần với từ thứ 6 của câu 8.
Từ cuối câu 8, nếu còn câu 6 kế sau, phải ăn vần với từ cuối câu 6 đó.
Là con Chúa cả trên trời,
Em luôn sống đúng những lời Chúa ban

 

3. Thực Hiện Câu Hò
1. A li hò lờ:
- Sau câu 6 chữ: Tất cả: “A li hò lờ”
- Đến câu 8: sau 4 chữ đầu : “A li hò lờ”
- Sau 4 chữ còn lại: vỗ tay theo nhịp, và hò câu: “Hò lơ, hó lơ, lắng tai nghe tiếng ai đang hò lờ, hò lơ, hó lơ”.
Vd: Tình yêu Chúa rất bao la (Ali)
Ngài yêu ta trước ( Ali.) khi ta yêu Ngài.(Hò..)

 

2. Hò Dô Ta:
- Ký hiệu *, thì hô: DÔ TA.
- Ký hiệu #, thì hát: Dô tà, dô tà là hò dô ta, dô ta.
Vd: Đèo cao * thì mặc đèo cao *,
Nhưng lòng ta quyết *, còn cao hơn đèo#.
Lưu ý: Mở đầu bằng câu gọi: “Ơ này anh chị em ơi”,
hay: “Ơ này anh Hai, cô Ba đó ơi” ! để thêm khí thế.

 

4. TRÒ CHƠI
Trò chơi rất cần thiết trong việc phát triển con người về trí - thể - đức dục. Trò chơi giúp xây dựng bầu khí tươi vui, rèn luyện khéo léo và giáo dục chiều sâu nội tâm. Đối với Giáo lý, trò chơi giúp ghi nhớ nội dung giáo lý.

 

1. Định nghĩa
Trò chơi là một cuộc vận động sinh hoạt
- Do một người Tổ chức
- Cho một số người tham gia
- Theo một qui ước có hướng dẫn
- Trong một thời gian nhất định
- Tại một nơi chốn.

Mục đích là: để đem lại một ý nghĩa riêng cho mỗi người và chung mọi người có mặt.

 

2. Mục đích yêu cầu trong Giáo lý: Giáo dục chiều sâu
Yêu cầu này cần thiết phải lộ rõ. Nó góp phần giáo dục:
Về nhân bản: Trò chơi giúp nhận thức kỷ luật tập thể, Tính trung thực trong thi đua. Ứng xử tốt đẹp xã hội; Ý chí cương quyết.
Về thiêng liêng: Trò chơi tôn giáo hình thành ý niệm Thiên Chúa và tha nhân, thêm yêu mến Kinh Thánh, đặc biệt là lời mời gọi của Phúc âm.

 

3. Điều khiển trò chơi
GLV làm người Quản trò (QT) là người hướng dẫn, điều khiển các trò chơi. Để đạt được thành công, nên cân nhắc chọn lựa trò chơi cho thích hợp với hoàn cảnh, nội dung bài dạy, lứa tuổi và số người tham dự.

Quản Trò tốt luôn thực hiện 4 bước sau:

1. Chuẩn bị Trò chơi
Quản Trò cần nghiên cứu kỹ lưỡng:
Địa điểm tổ chức sinh hoạt.
Phân công cụ thể.
Chuẩn bị các dụng cụ chơi cho chu đáo.

 

2. Hướng dẫn Trò chơi
Khi người Quản trò hướng dẫn trò chơi cho mọi người, cần chú ý các đìểm sau đây:
Tất cả phải im lặng chú ý nghe Quản Trò giới thiệu tên Trò chơi, phổ biến các qui ước trong luật chơi.
Quản trò giới thiệu rõ ràng và hấp dẫn, nên có câu chuyện, hoặc câu Lời Chúa để dẫn dụ vào trò chơi.
Ở từng điểm, nên cẩn thận hỏi lại xem mọi người đã hiểu, đã nắm vững luật chơi chưa.
Đề nghị chơi thử, xé nháp một hai lần cho chắc chắn, cũng là tạo bầu khí lôi cuốn mọi người vào cuộc chơi.

 

3. Diễn tiến Trò chơi
Đang khi tiến hành cuộc chơi, người Quản Trò phải chú ý các tính cách sau đây, liên quan đến tâm lý người chơi:
Quản Trò biết trực tiếp hoà mình một cách nhiệt tình trong trò chơi .
Luôn nhắc nhở, nêu cao tinh thần tự nguyện tự giác, trung thực.
QT khéo léo khuyến khích những ai nhút nhát, chưa quen sinh hoạt.

 

4. Kết thúc Trò chơi
Khi trò chơi chấm dứt, cần lưu ý đến các khía cạnh dưới đây :
Đừng bao giờ để các em chơi đến mức quá mệt, sinh ra dấu hiệu ngán ngẩm mà vẫn chưa chấm dứt trò chơi. Nên chuyển sang một trò chơi khác, nhẹ nhàng hơn.
Tuyên bố kết quả trò chơi sao cho công bằng, nhưng vẫn không quá chênh lệch giữa đội về nhất và đội về chót, khen người thắng và khuyến khích người chưa thắng.
Cuối cùng, nên vắn tắt nêu ý nghĩa của trò chơi vừa chơi xong, ý nghĩa nhân bản ở đời cũng như ý nghĩa hướng về chủ đề Giáo Lý
Nếu trò chơi cần đến hình phạt, nên chuẩn bị sẵn một số trò chơi phạt dưới hình thức như một phần thưởng đặc biệt hay một màn biểu diễn.

 

Chú ý: Trò phạt không được hành hạ như một nhục hình, nhưng chỉ cốt gây thêm bầu khí vui ; người bị phạt không thấy ngượng và mặc cảm ; cũng không phạt riêng một người nào đó, nhưng có thêm vài người cùng chịu phạt cho vui và bớt cô đơn.

5. BĂNG REO
Định nghĩa: Băng reo là tập hợp nhiều tiếng reo, thống nhất trong câu nói, cử chỉ, âm thanh, để bộc phát lên thành khẩu hiệu, lời tung hô, quảng cáo, nhằm kích thích sự hăng hái, phấn khởi, làm in sâu vào tâm trí người nghe.
Công dụng: Để chào mừng, tán thưởng, đổi bầu khí, tập trung chú ý...

 

Vài thể loại:
1. Lặp lại theo người điều khiển, thêm cử điệu:
Vd: ĐK: - Chúa đã về - Tc lặp lại (vỗ tay 3 cái)
-Trên phố phường - Lặp lại, (bước vào 3 bước.)
-Trên làng quê - Lặp lại, (bước thêm 3 bước)
-Trên quê hương VN (nhảy ra 6 bước 9, vung tay, Ah la lên !)

 

2. Người ĐK chỉ nói 1 câu, Tất cả nói câu khác:
Vd : ĐK: Chúa ở đâu ? - Tc: Trong Anh (chỉ vào)
ĐK: Chúa ở đâu ? - Tc: Trong tôi (chỉ ngực)
ĐK: Chúa ở đâu ? - Tc: Trên trời (chỉ lên)
ĐK: Chúa ở đâu ? - Tc: Khắp mọi nơi (xoay)
Rồi hát bài : Này em, em có biết ...
(Hoặc: Tình yêu Chúa - Tc: cao, sâu, rộng, bao la)

 

3. Người ĐK nêu nhiều ý, TC chỉ lập lại 1 câu :
Vd: ĐK: Ta vui - Tc: Bên nhau. (vỗ tay**)
ĐK: Ta múa - Tc: Bên nhau (vỗ lên đùi)
ĐK: Ta hát - Tc: Bên nhau (2 tay lên vai)
ĐK: Ta ca - Tc: Bên nhau
(Hát :Tang tang tang tình tang tính...)
(Hoặc : Ai đẹp, vui, hiền, duyên nhất ?: - Tc : Anh A)

 

4. Người ĐK nêu ý, TC cùng bổ túc ý :
Vd: ĐK: Sống trên đời - Tc: Phải có bạn.(2 tay chữ V)
ĐK: Không có bạn - Tc: Buồn chết đi (chắp tay)
ĐK:Nhưng phải chọn- Tc: Bạn tốt (nắm tay)
Vd : ĐK: Xin cho em-Tc: Là chim (giang tay)
ĐK: Để em gieo-Tc: Tin mừng (vung gieo)
ĐK: Để em rắc -Tc: Hoà bình (vỗ tay 2 bên)
ĐK: Để em bay -Tc: Về bên Chúa (vung, chắp)

 

5. Băng reo “Không lời”: tiếng xì, tiếng vỗ tay,tiếng thú vật . . .
Người ĐK nâng tay lên, (hoặc cầm một khăn tay), khi đưa lên cao, TC xì lớn, (hoặc vỗ tay lớn), khi hạ thấp thì nhỏ dần, bất chợt, tung khăn lên, thì chấm dứt .

 

Bài 23. PHƯƠNG PHÁP DỰ PHÒNG
Nhập: Phương pháp Dự Phòng, hay Hệ thống giáo dục Dự phòng, do thánh Don Boscô, nhà giáo dục đại tài vào thế kỷ thứ 19 (1815-1888) đã để lại cho Giáo Hội, qua Tu hội Salêsien. Phương pháp này có thể ứng dụng thành công trong việc Dạy Giáo lý cho Thanh Thiếu niên.

 

I. KHÁI NIỆM PHƯƠNG PHÁP DỰ PHÒNG
1. So sánh 2 phương pháp giáo dục
Trong Giáo dục đào tạo, có 2 phương pháp nổi bật: Đàn áp và Dự Phòng

 

a). Phương pháp Đàn áp:
Nhằm cho người thụ giáo biết rõ luật lệ, nên giám sát chặt chẽ để phát hiện kẻ phạm pháp, khi cần thì có những hình phạt cân xứng với lỗi phạm.
Phương pháp này giáo dục dễ dàng, ít mệt nhọc, nhanh chóng thiết lập trật tự. Người giáo dục gia tăng uy quyền của người trên, luôn tỏ ra nghiêm nghị, chỉ có mặt đúng lúc để ngăm đe và sửa phạt.
Phương pháp này rất thích hợp trong quân đội và môi trường cải tạo, sự giáo dục nhằm đề cao tính kỷ luật và trật tự.

 

b). Phương pháp Dự phòng:
Đối nghịch phương pháp đàn áp, phương pháp Dự phòng không nhằm mục tiêu là luật lệ, trật tự phải được duy trì bằng bất cứ giá nào, nhưng nhằm sự thăng tiến đích thực của người trẻ.
Phương pháp này được xây dựng trên lý trí, tôn giáo và tình yêu. Phương pháp này loại bỏ mọi thứ hình phạt thô bạo, đánh đập, hăm doạ, tạo sự sợ hãi, xa cách; trái lại, nó đòi hỏi một tình yêu, sự kiên nhẫn và lòng tin tưởng bao dung.
Sự hiện diện thân tình của người giáo dục nhằm soi sáng khả năng suy nghĩ của người thọ giáo, vì trước đó, họ đã chinh phục được các trẻ bằng tình thương và sự tín nhiệm. Đứng trước một người trẻ cụ thể có nhiều hạn chế như: chậm hiểu, mau quên, tự ái, quậy phá.. . họ có mặt để giúp khơi dậy khát vọng hướng thiện, hạn chế khuyết điểm, nhờ đó mà đào tạo được những người trẻ biết suy nghĩ, tự trọng và tiến tới trưởng thành.

 

2. Nền tảng phương pháp Dự phòng
Don Boscô đã đặt phương pháp nầy trên nền tảng Thiên Chúa là tình thương, được Mạc khải trong Tin mừng của Đức Kitô. Tất cả thái độ giáo dục cần bén rễ sâu vào Đức tin, vào sự suy niệm Phúc âm. Có thể nói: phương pháp giáo dục Dự phòng là phương pháp của Thiên Chúa, là phương pháp giáo dục của Tin mừng.
Việc thực hành phương pháp Dự phòng đều dựa vào những lời của thánh Phaolô: “Tình thương thì nhẫn nại, tình thương thì phục vụ, không ghen tương, không huênh hoang, không kiêu căng, không làm điều xấu, không tìm tư lợi, không bực tức, không để lòng hiềm thù, không vui vì sự bất công, nhưng tìm thấy niềm vui trong chân lý. Tình thương thì tha thứ mọi sự, tin tưởng mọi sự, hi vọng mọi sự, chịu đựng mọi sự”. (1 Cor 13, 4-7)

 

3. Ba khía cạnh căn bản của phương pháp Dự phòng:
Tôn trọng sự tự do của người trẻ: sự tự do cần được soi sáng và hướng dẫn. Hệ thống giáo dục này để cho người trẻ cởi mở - triển nở - tự tìm lấy đường hướng tốt - trưởng thành.
Nhìn và hiểu người trẻ trong con người toàn diện: thể lý - tinh thần, vật chất - thiêng liêng ; cá nhân - tập thể và xã hội. Giúp trẻ phát triển đồng bộ mọi chiều kích này.

 

Thiết lập mối quan hệ trên tình thân ái: Chính tình thân ái giữa nhà giáo dục và người trẻ, là phẩm chất số một của phương pháp. Sự yêu thương thúc đẩy nhà giáo dục dám hi sinh, và nhờ đó, sự hiện diện của họ mới là sự hỗ trợ thân tình cho trẻ. Không có thân tình, sẽ không tạo sự tin tưởng. Không có tin tưởng và tín nhiệm, giáo dục sẽ không đạt kết quả tốt. Muốn được sự tín nhiệm, nhà giáo dục hãy bắt đầu bằng việc tin tưởng các em, thương các em và làm cho các em cảm thấy rằng mình được yêu thương. Đó là bí quyết giáo dục giới trẻ của Don Boscô.

 

II. ÁP DỤNG VÀO VIỆC DẠY GIÁO LÝ
Việc áp dụng phương pháp Dự phòng không là đề ra một phương pháp giảng dạy mới trong giờ giáo lý (như Qui nạp, Trực giác, Linh hoạt..), nhưng chỉ đưa ra những gợi ý cho Giáo Lý viên, như là một đường hướng để lồng vào trong bối cảnh, bầu khí và thái độ trong việc Dạy Giáo lý.

 

1. Xét về Giáo lý viên
GLV cần đặt mình vào tư cách của nhà giáo dục Kitô hữu, chứ không là giáo viên môn giáo lý. GLV cần thông truyền kiến thức tôn giáo với cả một niềm say mê Thiên Chúa. “Họ thông truyền sự hiện diện đầy tình yêu thương của Chúa bằng chính con người của họ”. (DGL 66).
Với thái độ giáo dục Kitô hữu, thì phong cách cư xử và giảng dạy của GLV đối với học viên sẽ là : tin tưởng, tôn trọng tự do nhân vị, xây dựng tình thân ái, gây tín nhiệm. Tình thương sẽ giúp GLV kiên nhẫn, uyển chuyển, sáng tạo và quan trọng hơn cả : họ chinh phục được cõi lòng của Học viên bằng tình mến Chúa yêu người.

 

2. Xét về Học viên
Nhờ GLV áp dụng phương pháp Dự phòng, các học viên sẽ cảm thấy thoải mái, nhẹ nhàng, vì chính học viên sẽ cảm nghiệm phần nào tình yêu Thiên Chúa qua thái độ và cách cư xử của GLV. Họ cảm thấy mình được tôn trọng, được thông cảm, được nâng đỡ, phát huy.
Học viên cảm thấy mình là một con người hơn, có tự do và nhân cách hơn các lớp học khác...và như thế, việc học sẽ mau tiến bộ hơn, nhất là học viên cảm nghiệm được niềm vui sống như người con Chúa.

 

3. Xét về bối cảnh lớp Giáo lý
Đó là bầu khí gia đình đầm ấm, sinh hoạt vui tươi, nhờ vào tương quan tôn trọng, tin tưởng, thân ái, gần gũi của GLV đối với học viên. Việc học giáo lý cũng dễ dàng kết hợp với những hoạt động ngoài giờ giáo lý, như vui chơi, giải trí, cắm trại... hầu đưa Tin mừng vào cuộc sống cụ thể hàng ngày, nhằm phát triển nhân cách và trưởng thành đức tin.
Phương pháp Dự phòng còn giúp cho GLV hiện diện tích cực và hỗ trợ với các học viên, gọi là sự “Hộ trực”. Sự hiện diện này thể hiện cách sinh động trong giờ giáo lý, và còn trải dài cả ngoài giờ lớp giáo lý, như môi trường gia đình, trường học, khu xóm, bạn bè... GLV tiếp tục quan tâm, theo dõi việc học, tiếp thu ý kiến, tạo điều kiện giúp các em nghèo, yếu kém, quậy phá... để hướng dẫn, sửa bảo các em trong lãnh vực nhân bản và đức tin.

 

Bài 24. PHƯƠNG PHÁP NĂNG ĐỘNG NHÓM
HỌP NHÓM và HỘI THẢO
Phương pháp Năng động Nhóm : là những phương thế, kỹ thuật tân thời, nhằm gia tăng hiệu năng làm việc của mỗi thành viên trong nhóm. Phương pháp này đặt nền tảng trên lòng kính trọng con người và sự chia sẻ trách nhiệm giữa các thành viên của nhóm.
Mục đích của Năng động nhóm : nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tích cực tham gia học hỏi, tìm hiểu. Qua năng động nhóm, mối quan hệ giữa người và người được thiết lập, sẽ giúp nhau trau dồi kiến thức và còn làm cho mỗi thành viên được chuyển biến sâu xa nơi tâm hồn. Phương pháp này thích hợp cho Lớp Giáo lý Thanh niên, người lớn.

 

Lợi ích của Năng động nhóm:
Tạo cơ hội để “Tập nghệ thuật lắng nghe”. Nghe gì, nghe ai, nghe thế nào, nghe để làm gì ? Nghe để hiểu người, nghe với hết con tim và con người mình. Châm ngôn: “Lòng ta nghe ý bạn”Tạo cơ hội để “Tập phát biểu”, từ suy nghĩ đến phát biểu thành lời là quá trình không luôn dễ dàng đâu ! Nhờ năng động nhóm, ta nỗ lực phát huy sức mạnh, tự khẳng định mình, tìm cơ hội để phát biểu.
Tạo cơ hội để “Thực sự gặp nhau”: Khi lột bỏ mặt nạ, cởi mở giao tiếp trực tiếp với các thành viên khác, ta tự “biết mình”, “biết người” chung quanh ta, để nhờ đó có một chuyển biến sâu xa hơn.

 

I. HỌP NHÓM
Đây là phương pháp thỉnh thoảng áp dụng dạy Giáo lý cho tuổi Thanh thiếu niên, khi có những đề tài cụ thể, gần gũi với các em.

 

1. CÁCH THỨC. GLV giới thiệu đề tài Giáo lý, nêu lên vấn đề dưới hình thức đặt câu hỏi thảo luận. Kế đến, lớp chia ra thành những nhóm nhỏ 7-8 em, cùng nhau suy nghĩ, trao đổi, ghi lại trên giấy. Sau đó, các nhóm họp chung, báo cáo kết quả nhóm mình. Đến phần thảo luận chung, GLV tổng hợp, làm nổi bật ý kiến hay, bổ túc và đưa ra dái pháp chung cuộc về vấn đề đã thảo luận.

 

2. KẾT QUẢ cuộc Họp Nhóm tuỳ thuộc 2 yếu tố:
Sự đóng góp tích cực và thành thực của mỗi thành viên trong nhóm.
Sự hướng dẫn khéo léo và đúc kết chính xác của GLV.

 

3. DIỄN TIẾN phương pháp Họp Nhóm.
Bườc I. Giới thiệu đề tài và đặt câu hỏi.
GLV khởi điểm bài Giáo lý bằng một đoạn Kinh Thánh, hoặc một sự kiện, một trường hợp. Từ đó, nêu lên một thắc mắc, một vấn đề để suy nghĩ, thảo luận, tìm ra giải đáp. Mục đích của phần nầy là gây ấn tượng.
Muốn gây ấn tượng, gây phản ứng, cần đặt câu hỏi dưới nhiều hình thức mới lạ, sắc bén, đôi khi bi thảm... Có thể đặt vấn đề bằng lời, chữ viết, tranh vẽ, trang báo... nhưng tất cả phải có khả năng gợi ý hướng về nội dung tôn giáo và đưa đến một giải đáp.

 

Bước II. Họp Nhóm nhỏ
Chia từng nhóm nhỏ để mọi người có thể : hiểu vấn đề, phát biểu ý kiến, quan điểm của mình về vấn đề đặt ra. Việc trao đổi nhóm còn nhằm tiếp thu các ý kiến và chuẩn bị cho phần thảo luận chung.
Điều quan trọng trong việc trao đổi nhóm, là mọi người đểu cởi mở phát biểu ý kiến, chú trọng và lắng nghe người khác, cho dù có vài điều mình không đồng ý. Đây chưa phải là lúc đối chiếu quan điểm.
Mỗi nhóm, chọn ra một trưởng nhóm, giữ vai trò Linh hoạt và điều hành.

Trưởng nhóm biết gợi câu hỏi, mời phát biểu, biết tóm ý kiến chính xác và ngắn gọn. Cần có 1 thư ký để ghi lại những ý kiến đã phát biểu và tổng hợp để tường trình trong phần Họp chung.

 

Bước III Họp Chung.
Tường trình : Thư ký mỗi nhóm sẽ tường trình cho cả lớp biết kết quả trao đổi của nhóm mình. Việc tường trình theo 2 qui luật :
- Tường trình theo thứ tự:
- Tình hình chung của cuộc trao đổi.
- Những điểm đã đề cập tới.
- Các ý kiến phân làm mấy loại, tóm từng loại.
- Những điều nổi bật đáng chú ý trong cuộc trao đổi.
- Người tường trình sau: Không cần nhắc lại những điều nhóm trước đã trình bày. Nên theo thứ tự:
- Nhóm tôi đồng ý với các nhóm trước về điểm này...
- Xin bổ túc thêm về điểm này...
- Có quan niệm khác, hoặc ngược lại về điểm này ...

 

Thảo luận chung: GLV nên ghi lại trên bảng theo từng loại : những ý kiến thuận rộng rãi, những ý mơ hồ cần suy nghĩ thêm, những ý kiến còn khác biệt. Rồi mời tất cả thảo luận.

GLV cần làm 4 việc:
- Đào sâu nỗ lực suy nghĩ, tìm hiểu của học viên.
- Xác định và chấp nhận những ý kiến đúng .
- Lưu ý về những điều chưa ai để ý tới.
- Đúc kết tất cả thành công thức ngắn gọn.

 

Bước IV. Đúc kết.
Khi thảo luận xong, GLV tổng hợp các ý kiến cách mạch lạc, đánh giá những ý kiến, làm nổi bật những ý kiến góp phần giải đáp, rồi cuối cùng : tóm lược giải đáp, rút ra bài học bằng một câu ngắn gọn.

 

4. VÀI QUI LUẬT
Cuộc thảo luận lúc họp dễ gây rối loạn, lạc đề, đôi khi vượt ngoài khả năng hiểu biết và tự chủ, GLV cần áp dụng vài kỷ luật cho mọi người:
1). Trước khi phát biểu, phải suy nghĩ kỹ về quan điểm của mình và tìm cách phát biểu ngắn nhất, rõ ràng nhất.
2). Không được cắt ngang lời người đang nói, cần chờ đợi họ nói xong.
3). Trước khi nhận định về ý kiến của ai, ta cần yêu cầu người đó giải thích rõ ràng ý kiến của họ.
4). Khi các ý kiến đưa ra mơ hồ, GLV cần yêu cầu người phát biểu giải thích và trưng dẫn bằng chứng, sự kiện hoặc ví dụ cụ thể.
Phương pháp Họp nhóm rất khó, nó đòi hỏi sự trưởng thành suy luận và kỷ luật tự phát nơi học viên. Cần phải dày công huấn luyện mới đạt.

 

II. HỘI THẢO
1. HÌNH THỨC: có nhiều hình thức hội thảo, ở đây chỉ nói đến hình thức đơn giản và thông dụng gọi là “Panel”. Hội thảo là hình thức trao đổi của một nhóm hội thảo viên trước một cử toạ về những cảm nghĩ, quan điểm, kinh nghiệm bản thân về một vấn đề nào đó. Quan điểm của mình được đối chiếu với quan điểm của những người khác.

 

2. ĐIỀU KIỆN cần có để thành cuộc hội thảo:
Có nhiều quan điểm khác nhau về một vấn đề, nhưng phải có lý và có thể chấp nhận được.
Các hội thảo viên là những người có chủ trương và đã hành động theo quan điểm đó.
Cử toạ có thể phát biểu cảm nghĩ của mình, và dựa vào các quan điểm trình bày, có thể duyệt lại quan điểm riêng.

 

3. ÁP DỤNG vào Giáo lý.
Trong giáo lý, Hội thảo là cơ hội đối chiếu các quan điểm sống đạo khác nhau, và còn là phương thế loan truyền Tin Mừng đích thực.
Tuy cùng chấp nhận một đức tin giống nhau, nhưng khi áp dụng Lời Chúa và sống đức tin trong hoàn cảnh khác nhau, nên mọi người có sự lựa chọn và thái độ khác nhau, vì thế cần đối chiếu quan điểm.
Nhờ đối chiếu các quan điểm khác nhau, mỗi người có thể duyệt lại các quan điểm của mình, xem có hợp lý và đứng vững không, sẽ đưa đến sáng suốt và xác tín hơn về sự lựa chọn của mình.
Hội thảo còn là dịp thuận lợi để mỗi người rèn luyện thái độ lắng nghe, hiểu nhau, chấp nhận sự khác biệt và tôn trọng lẫn nhau. Giúp cho hiểu và sống Tin Mừng cách sâu sắc...

 

4. DIỄN TIẾN cuộc Hội thảo.
1). Khởi đầu
Cần chuẩn bị trước vài tuần cho các hội thảo viên được tuyển lựa: Giúp hiểu cách thức và diễn tiến hội thảo, giải thích đại cương đề tài hội thảo. Mỗi người có thể hỏi ý kiến cha mẹ, thầy, bạn, sách ... Cần chú trọng 3 điểm:
- Hiểu rõ đề tài và vấn đề đưa ra.
- Xác định quan điểm riêng của mình về vấn đề này.
- Tìm lý lẽ bênh vực, tìm ví dụ cụ thể để biện hộ chọn lựa.

 

2). Bố trí phòng hội thảo.
Số hội thảo viên có thể từ 4 đến 10, lý tưởng là từ 6 đến 8, nhằm đủ đối thoại và muốn có nhiều ý kiến khác nhau.
Bố trí vị trí: Hội thảo viên xếp ghế ngồi 2 bên hơi xéo, để có thể nhìn thấy nhau, GLV làm hướng dẫn viên ngồi ở giữa, đối diện với cử toạ.

 

3). Vai trò của GLV làm Hướng dẫn viên, điều phối chương trình.
GLV tạo cơ hội cho mọi người phát biểu, yêu cầu giải thích thêm hoặc đưa ra bằng chứng. GLV hướng cuộc thảo luận về những điểm mới.

 

4). Chia giờ trong cuộc hội thảo.
- Hướng dẫn viên trình bày vấn đề: 5
- Thảo luận giữa các Hội thảo viên: 30
- Cử toạ đặt câu hỏi với Hội thảo viên:20
- Hướng dẫn viên kết luận: 5

 

Phần kết thúc, GLV chú trọng 2 điểm:
Nhận định về mỗi lập trường đã được trình bày: giá trị và giới hạn.
Làm nổi bật lý do biện minh và chân lý đức tin làm nền tảng lập trường.

 

 

 

 

 

Trở Về Đầu Trang

 

 

Xin Thiên Chúa là Cha Nhân Từ chúc lành cho
Quý Cha, Quý Tu Sỹ và Quý Anh Chị Em
Phòng Đạo Binh Hồn Nhỏ
Phòng Đạo Binh Hồn Nhỏ