Nước Trời Của Những Ai Nên Giống Như Trẻ Nhỏ (Mt 19,4)

 

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo

CATECHISMUS CATHOLICAE ECCLESIAE

1992

 

PHẦN THỨ NHẤT

Tuyên Xưng Đức Tin

PARS PRIMA
PROFESSIO FIDEI

 

ĐOẠN THỨ HAI
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KITÔ GIÁO

SECTIO SECUNDA
FIDEI CHRISTIANAE PROFESSIO

 

CHƯƠNG I
TÔI TIN KÍNH THIÊN CHÚA  CHA

CAPUT PRIMUM
CREDO IN DEUM PATREM

 

198.     Bản tuyên xưng đức tin của chúng ta bắt đầu bằng Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là "Đầu và là Cuối" (Is 44,6), Khởi nguyên và Cùng đích của hết mọi sự. Kinh Tin Kính bắt đầu với Thiên Chúa Cha, vì Chúa Cha là Ngôi Thứ Nhất trong Ba Ngôi Thiên Chúa; tín biểu bắt đầu bằng việc sáng tạo trời đất vì việc sáng tạo là khởi đầu và là nền tảng mọi công trình của Thiên Chúa.

 


Mục 1
“TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI
LÀ CHA PHÉP TẮC VÔ CÙNG DỰNG NÊN TRỜI ĐẤT”
ARTICULUS 1
“CREDO IN DEUM PATREM OMNIPOTENTEM,
CREATOREM CAELI ET TERRAE”

 

TIẾT 1

TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI

Paragraphus 1: Credo in Deum

 

199 2083.        "Tôi tin kính Đức Chúa Trời": lời khẳng định đầu tiên của bản tuyên xưng đức tin cũng là lời căn bản nhất. Trọn tín biểu đều nói về Thiên Chúa. Tất cả các tín điều trong Kinh Tin Kính đều tùy thuộc vào tín điều thứ nhất, cũng như các giới răn làm rõ ý giới răn thứ nhất. Những tín điều còn lại, giúp chúng ta hiểu biết Thiên Chúa hơn, như Người đã từng bước mặc khải cho con người. "Điều đầu tiên người tín hữu tuyên xưng là tin vào Thiên Chúa" (Giáo lý Rôma 1,2,2).

 


I. "TÔI TIN KÍNH MỘT THIÊN CHÚA"
« Credo in unum Deum »  

 

200 2085.        Kinh Tin Kính của Công Đồng Nicêa-Constantinôpôli bắt đầu bằng những lời trên đây: Lời tuyên xưng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, bắt nguồn từ mặc khải của Thiên Chúa trong Cựu Ước, liên kết chặt chẽ với lời tuyên xưng về sự hiện hữu của Thiên Chúa, và có cùng một giá trị căn bản như vậy. Thiên Chúa là Đấng duy nhất: chỉ có một Thiên Chúa. "Đức tin Kitô giáo tuyên xưng chỉ có một Thiên Chúa, xét theo bản tính, bản thể và yếu tính" (Catechismus Romanus).

201 2083.        Thiên Chúa tự mạc khải cho Israel, dân Ngài chọn, rằng Ngài là Đấng Duy Nhất: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5). Qua các Tiên tri, Thiên Chúa kêu gọi Israel và các dân tộc trở lại với Ngài, là Đấng Duy Nhất: “Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ, vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn chúa nào khác… Trước mặt Ta, mọi người sẽ quỳ gối, và mở miệng thề rằng: Chỉ mình Đức Chúa mới cứu độ và làm cho mạnh sức” (Is 45,22-24, x.Pl 2,10-11).

202 446 152.   Chính Đức Giêsu xác định Thiên Chúa là "Đức Chúa Duy Nhất," và phải yêu mến Người "hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí và hết sức lực ngươi" (x.Mc 12,29-30). Đồng thời, Người cũng ngầm cho ta hiểu chính Người là "Đức Chúa" (x.Mc 12,35-37). Tuyên xưng "Đức Giêsu là Đức Chúa" là đặc tính của đức tin Kitô giáo. Điều này không trái ngược với đức tin vào một Thiên Chúa Duy Nhất. Tin vào Chúa Thánh Thần là "Đức Chúa và là Đấng Ban Sự Sống" không đưa đến một sự phân chia nào nơi Thiên Chúa Duy Nhất:

42.       Chúng tôi tin vững vàng và khẳng định đơn giản chỉ có một Thiên Chúa chân thực, vô hạn và bất biến, vô phương thấu hiểu, toàn năng và khôn tả, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ba ngôi vị, nhưng chỉ có một bản thể hay bản tính đơn thuần (CĐ Latêranô IV, DS 800).

 


II. THIÊN CHÚA MẶC KHẢI DANH THÁNH NGƯỜI
Deus Nomen Suum revelat  

 

203 2143.        Thiên Chúa tự mặc khải cho Israel dân Người, bằng cách mặc khải Danh Thánh Người. Trong Thánh Kinh, tên của một người diễn tả yếu tính, căn tính và ý nghĩa đời họ. Thiên Chúa không phải là một sức mạnh vô danh. Thiên Chúa có tên. Cho biết tên tức là cho người khác biết mình; là cởi mở để người ta dễ dàng đến với mình, liên hệ mật thiết hơn và gọi được tên nhau.

204 63.            Thiên Chúa đã từng bước mặc khải chính mình ra cho dân Người dưới nhiều danh thánh khác nhau. Tuy nhiên, việc mặc khải danh thánh cho Môisen trong cuộc thần hiện nơi bụi gai bốc lửa, trước cuộc Xuất Hành và Giao Ước tại Sinai, đã được nhận là mặc khải căn bản cho Cựu và Tân Ước.

Thiên Chúa hằng sống

Deus vivens
205 2575 268.             Thiên Chúa gọi Môisen từ giữa bụi gai đang cháy nhưng không tàn lụi. Thiên Chúa nói với Môisen: "Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob” (Xh 3,6). Thiên Chúa là Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã kêu gọi và hướng dẫn các Tổ phụ trong các cuộc lữ hành của họ. Ngài là Thiên Chúa trung tín và thương xót, Đấng nhớ tới họ và nhớ các lời Ngài đã hứa; Ngài đến để giải thoát con cháu họ khỏi ách nô lệ. Ngài là Thiên Chúa, Đấng, vượt quá thời gian và không gian, có khả năng và ý muốn làm điều đó, và là Đấng sẽ dùng sự toàn năng của mình để thực hiện kế hoạch này.

"Ta là Đấng Hiện Hữu"

« Ego sum qui sum »

“Ông Môisen thưa với Thiên Chúa: ‘Bây giờ, con đến gặp con cái Israel và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?’ Thiên Chúa phán với ông Môisen: ‘Ta là Đấng Hiện Hữu’. Ngài phán: ‘Ngươi nói với con cái Israel thế này: “Đấng Hiện Hữu” sai tôi đến với anh em… Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia’” (Xh 3,13-l5).

206 43.            Khi mạc khải Danh thánh bí nhiệm YHWH của Ngài, nghĩa là, “Ta là Đấng Hiện Hữu” hoặc “Ta là Đấng Ta là”, hoặc “Ta chính là Ta”, Thiên Chúa nói Ngài là ai và phải gọi tên Ngài như thế nào. Danh thánh này có tính chất huyền nhiệm cũng như Thiên Chúa là mầu nhiệm. Đó vừa là Danh được mạc khải, vừa như là từ chối một Danh xưng, và vì vậy, Danh này diễn tả Thiên Chúa một cách tốt nhất, vì Ngài là Đấng vô cùng vượt quá tất cả những gì chúng ta có thể hiểu biết và nói lên: Ngài là “Thiên Chúa ẩn mình” (Is 45,15), Danh thánh Ngài không thể gọi được (x.Thp 13,18); và Người là vị Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người:

207.     Khi mặc khải danh thánh, Thiên Chúa đồng thời mặc khải lòng trung tín của Người từ muôn thuở và cho tới muôn đời, có giá trị trong quá khứ ("Ta là Thiên Chúa cha ông ngươi": Xh 3,6) cũng như trong tương lai ("Ta sẽ ở với ngươi": Xh 3,12). Thiên Chúa mặc khải danh thánh mình là "Đấng Hiện Hữu" thì cũng tự mặc khải mình như vị Thiên Chúa luôn hiện diện, có mặt bên cạnh để giải cứu dân mình.

208 724 448 388.        Trước sự hiện diện cuốn hút và huyền nhiệm của Thiên Chúa, con người nhận ra sự nhỏ bé của mình. Trước bụi gai cháy bừng, ông Môisen cởi dép và che mặt trước tôn nhan Thiên Chúa chí thánh (x. Xh 3,5-6). Trước vinh quang của Thiên Chúa ba lần thánh, tiên tri Isaia thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế” (Is 6,5). Trước những dấu chỉ thần linh Chúa Giêsu thực hiện, ông Phêrô thốt lên: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8).

Nhưng bởi vì Thiên Chúa là Đấng Thánh, nên Ngài có thể tha thứ cho kẻ nhận biết mình là tội nhân trước mặt Ngài: “Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận…, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Hs 11,9). Tông đồ Gioan cũng sẽ nói tương tự: “Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (1 Ga 3,19-20).

209 446.          Vì tôn kính sự thánh thiện của Thiên Chúa, dân Israel không gọi Danh của Ngài. Khi đọc Thánh Kinh, người ta thay thế Danh được mạc khải bằng tước hiệu thần linh là “Dominus = Chúa” (Adonai, tiếng Hy lạp là Kyrios). Thần tính của Chúa Giêsu sẽ được tuyên xưng bằng tước hiệu này: “Đức Giêsu là Chúa”.

"Thiên Chúa của tình yêu thương và từ bi"

« Deus teneritudinis et clementiae »
210 2116, 2577.          Sau khi dân Israel phạm tội, chối bỏ Thiên Chúa để thờ con bê bằng vàng (Xh.32), Thiên Chúa nghe lời cầu khẩn của Môisen và chấp nhận đồng hành giữa đám dân bất trung, để tỏ lòng yêu thương của Người (Xh 33,12-17). Khi Môisen xin được thấy vinh quang Thiên Chúa, Người trả lời: "Ta sẽ cho ngươi thấy Ta nhân từ như thế nào và Ta sẽ xưng danh thánh Giavê (YHWH) trước mặt ngươi" (Xh 33,18-19). Đức Chúa đi qua trước mặt Môisen và nói: "Giavê, Giavê, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,5-6). Bấy giờ, Môisen tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa thứ tha (x.Xh 34,9).

211 604.          Danh thánh "Ta Hiện Hữu" hoặc "Đấng Hiện Hữu" diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa, Đấng "vẫn giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn" (Xh 34,7), cho dù con người có bất trung, tội lỗi, đáng phải trừng phạt. Thiên Chúa mạc khải rằng Ngài “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4), đến nỗi trao ban chính Con Một của Ngài. Chúa Giêsu, khi hiến mạng sống mình để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, sẽ mạc khải rằng chính Người mang danh thánh của Thiên Chúa: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là ‘Tôi Hiện Hữu’” (Ga 8,28).

Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng HIỆN HỮU

Solus Deus EST
212 42 469,2086.        Trải qua các thời đại, đức tin của Israel đã khai triển và đào sâu sự phong phú chứa đựng trong mặc khải danh thánh này. Thiên Chúa là duy nhất, ngoài Người ra không có thần nào hết. Người siêu vượt thế giới và lịch sử. Chính Người tạo dựng trời đất. "Chúng tiêu tan, Chúa còn hoài; chúng như áo cũ thay rồi mòn hao... Nhưng chính Ngài tiền hậu y nguyên, tháng năm Ngài vẫn triền miên" (Tv 102, 27-28). Nơi Người, "không có thay đổi, không hề biến thái" (Gc 1,17). Người là "Đấng Hiện Hữu" từ muôn thuở đến muôn đời, và như vậy Người luôn trung tín với chính mình và với các lời Người hứa.

213 41.            Vì thế, măc khải danh thánh khôn tả "Ta là Đấng Hiện Hữu" chứa đựng chân lý: chỉ mình Thiên Chúa là Đấng HIỆN HỮU. Bản dịch Bảy Mươi và kế đó là truyền thống Hội Thánh đã hiểu danh thánh của Thiên Chúa theo nghĩa đó: Thiên Chúa là sự viên mãn của hiện hữu và của mọi sự trọn hảo, không khởi nguyên, không cùng tận. Trong khi các thụ tạo là gì, và có gì, đều phải lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa, thì duy chỉ mình Người là tự hữu và Người thế nào là do chính Người.

 


III. THIÊN CHÚA, "ĐẤNG HIỆN HỮU" LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ TÌNH THƯƠNG
Deus, « Ille qui est », est veritas et amor  

 

214 1062.        Thiên Chúa, "Đấng Hiện Hữu", đã tự mặc khải cho Israel như là Đấng "giàu ân sủng và thành tín" (Xh 34,6). Hai từ ngữ đó diễn tả một cách cô đọng những gì là phong phú của danh thánh. Trong mọi công trình của Người, Thiên Chúa biểu lộ lòng ưu ái, lòng nhân hậu, ân sủng và tình thương; Người cũng cho thấy mình là Đấng đáng tin, bền vững, trung tín, chân thật: "Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài thành tín và yêu thương" (Tv 138,2; Tv 85,11). Thánh Gioan Tông Đồ dạy: Người là Sự Thật, vì "Thiên Chúa là Ánh Sáng, nơi Người không có một chút bóng tối nào" (1Ga 1,5); Người là "Tình Thương" (1Ga 4,8).

Thiên Chúa là Sự Thật

Deus veritas est
215 2465 1063,156 397.         "Nguyên lý lời Người là chân lý, mọi quyết định công minh của Người tồn tại muôn năm" (Tv 119, 160). "Lạy Chúa Thượng là Đức Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý" (2Sm 7, 28); vì vậy những lời Thiên Chúa hứa luôn luôn được thực hiện (x.Dnl7,9). Thiên Chúa là chính Sự Thật, lời Người không phỉnh gạt. Vì vậy ta có thể hoàn toàn tin tưởng vào sự chân thật và sự trung tín của lời Người trong mọi sự. Khởi đầu của tội lỗi và sự sa ngã của loài người là lời dối trá của tên cám dỗ làm cho con người nghi ngờ lời Thiên Chúa, cũng như lòng nhân hậu và lòng thành tín của Người.

216 295 32.     Sự thật của Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Người khôn ngoan điều khiển toàn bộ trật tự sáng tạo và vận hành vũ trụ (Kn 13,1-9). Một mình Thiên Chúa đã sáng tạo trời đất (Tv 115,15); duy chỉ mình Người mới ban cho chúng ta sự hiểu biết đích thực về mọi vật được tạo dựng trong tương quan với Người (Kn 7,17-21).

217 851 2466.             Thiên Chúa cũng là Đấng chân thật khi Người tự mặc khải: giáo huấn phát xuất từ Thiên Chúa là "một đạo lý chân thật" (Mlk 2, 6). Khi Người cử Con của Mình vào trần thế, chính là để làm chứng cho Sự Thật (Ga 18, 37). "Chúng ta biết rằng, Con Thiên Chúa đã đến ban cho chúng ta trí khôn để nhận biết Thiên Chúa thật " (1Ga 5, 20) (x.Ga 17,3).

Thiên Chúa là Tình Thương
Deus caritas est

218 295.          Trong dòng lịch sử của mình, Israel đã khám phá ra Thiên Chúa chỉ có một lý do duy nhất khi tự mặc khải cho họ và đã chọn họ giữa tất cả các dân khác để thuộc về Người: đó là tình thương nhưng không của Người (Dnl 4,37; 7,8; 10,15). Và nhờ các ngôn sứ, Israel cũng hiểu rằng, chính vì yêu thương mà Thiên Chúa đã không ngừng giải cứu (Is 43,1-7) và tha thứ những bất trung và tội lỗi của họ (Hs 2).

219 239 796 458.        Tình thương của Thiên Chúa dành cho Israel được so sánh với tình thương của một người cha đối với con mình (Hs 11,1). Tình thương đó còn mạnh hơn tình thương của một người mẹ dành cho con cái (Is 49,14-15). Thiên Chúa yêu dân người hơn cả một người chồng yêu người vợ quý (Is 62,4-5). Tình yêu đó sẽ thắng vượt cả những bất trung tệ hại nhất (Ed 16; Hs 11); và sẽ đưa đến hồng ân quý giá nhất: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người" (Ga 3,16).

220.     Tình thương của Thiên Chúa "vĩnh cửu" (Is 54,8): "Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình thương của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi" (Is 54,10). "Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương" (Gr 31,3).

221 733 851 257.        Thánh Gioan còn đi xa hơn nữa khi xác nhận: "Thiên Chúa là Tình Thương" (1Ga 4,8.16): Bản thể của Người là tình thương. Khi cử Con Một Người và Thánh Thần Tình Yêu đến trần thế lúc thời gian đã viên mãn, Thiên Chúa mặc khải điều bí ẩn thâm sâu nhất của Người (1Cr 2,7-16; Eph 3,9-12): Chính Người là sự trao đổi tình yêu vĩnh cửu - Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần và Người đã tiền định cho ta được dự phần vào tình thương ấy.

 


IV. TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐỨC TIN VÀO THIÊN CHÚA DUY NHẤT

De consectariis fidei in Unum Deum   

 

222.     Tin vào Thiên Chúa, Đấng duy nhất, và yêu mến Người với cả con người có những hệ quả rất lớn cho trọn cuộc sống của chúng ta:

223 400.          * Đó là nhận biết sự cao cả và uy linh của Thiên Chúa: "Phải, Thiên Chúa thật quá cao cả, Người vượt mọi thông hiểu của chúng ta" (G 36,26). Chính vì thế mà Thiên Chúa phải được "phụng thờ trên hết" (Thánh Jeanne d’Arc, Dictum).

224 2637.        * Đó là sống trong niềm tạ ơn: nếu Thiên Chúa là Đấng duy nhất, thì chúng ta là gì, và có gì, đều do từ Người mà đến: "Bạn có gì mà đã không nhận lãnh?" (1Cr 4,7). "Lấy chi đền đáp Chúa, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?" (Tv 116,12).

225 356, 360 1700, 1934.       * Đó là nhận biết được tính thống nhất và phẩm giá đích thực của mọi người: Mọi người đều được dựng nên " theo hình ảnh và giống Thiên Chúa" (St 1,26).

226 339, 2402 2415.   * Đó là biết sử dụng thích đáng những tạo vật: Vì tin vào Thiên Chúa duy nhất, chúng ta sử dụng mọi tạo vật trong mức độ chúng giúp chúng ta đến gần Chúa, và dứt bỏ khi chúng lôi kéo ta xa khỏi Chúa (Mt 5,29-30; 16,24; 19,23-24).

Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, xin cất đi tất cả những gì làm con xa Chúa. Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, xin ban cho những gì đưa con đến gần Chúa. Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, xin giải thoát con khỏi chính mình con để tận hiến cho Chúa" (Thánh Nicôla Flue, Bruder-Klausen-Gebet, Cầu nguyện).

« Domine meus ac Deus meus, aufer a me quidquid ad Te me impedit! Domine meus ac Deus meus, da mihi quidquid ad Te me adducit! Domine meus ac Deus meus, solve me a me et da me totum Tibi [esse] proprium! »


227 313, 2090.            * Đó là phó thác cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, kể cả nghịch cảnh. Một bản kinh của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu diễn tả ý đó một cách tuyệt vời.

2830 1723.     

Đừng để điều gì làm cho bạn xao xuyến;

Đừng để điều gì làm cho bạn lo sợ.

Mọi sự đều qua đi, Thiên Chúa không thay đổi!

Kiên nhẫn thì ta sẽ được mọi sự.

Người có Chúa ở cùng thì không thiếu gì:

Một mình Chúa là đủ cho ta (Thánh Têrêsa Giêsu, Poesia, 9).

 


TÓM LƯỢC

Compendium


228.     “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất” (Đnl 6,4; Mc 12,29) “Hữu Thể tối cao nhất thiết phải là duy nhất, nghĩa là không ai sánh bằng… Nếu Thiên Chúa không duy nhất, thì Ngài không phải là Thiên Chúa” (Tertullianô, Adversus Marcionem 1,3).

229.     Đức tin vào Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta hướng về một mình Người, như về nguồn gốc đầu tiên và về cùng đích tối hậu của chúng ta; nên không có gì quí trọng hơn Người hoặc thay thế được Người.

230.     Khi tự mặc khải, Thiên Chúa vẫn là một mầu nhiệm khôn tả: "Nếu bạn hiểu được Người, Người không phải là Thiên Chúa nữa" (Thánh Augustinô, Sermo, bài giảng 52,6,16 ).

231.     Thiên Chúa mà chúng ta tin đã tự mặc khải như là Đấng Hiện Hữu; Người cho chúng ta biết Người là Đấng "giàu ân sủng và thành tín" (Xh 34,6). Bản thể của Người là Sự Thật và Yêu Thương.

 

 

 

 

 

Trở Về Đầu Trang

 

 

Xin Thiên Chúa là Cha Nhân Từ chúc lành cho
Quý Cha, Quý Tu Sỹ và Quý Anh Chị Em
Phòng Đạo Binh Hồn Nhỏ
Phòng Đạo Binh Hồn Nhỏ