“TÔI TIN” – “CHÚNG TÔI TIN” SECTIO PRIMA CHƯƠNG II CAPUT SECUNDUM 50 36 1066 Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa một cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người. Nhưng còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới bằng sức lực của chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mặc khải của Thiên Chúa (CĐ Vatican I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c.4: DS 3015). Bằng một quyết định hoàn toàn tự do, Thiên Chúa tự mặc khải và ban chính mình cho con người. Thiên Chúa làm điều đó bằng cách mặc khải mầu nhiệm của Người, ý định yêu thương Người đã có từ muôn thuở trong Đức Kitô, để mưu ích cho mọi người. Thiên Chúa mặc khải trọn vẹn ý định của Người khi cử Người Con chí ái là Đức Kitô, Chúa chúng ta, và khi cử Thánh Thần đến với loài người. SỰ MẶC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA Articulus 1: De Revelatione Dei I. THIÊN CHÚA MẠC KHẢI “KẾ HOẠCH YÊU THƯƠNG” CỦA NGÀI Deus Suum revelat « benevolum consilium » 51 2823 1996 "Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Người. Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 2: AAS 58 (1966) 818.). 52. Thiên Chúa, Đấng "ngự trong ánh sáng siêu phàm" (1Tm 6,16), muốn thông ban sự sống thần linh của chính mình cho loài người mà Người đã tự do sáng tạo, để làm cho loài người được trở nên nghĩa tử trong Con Một của Người (Ep 1,4-5). Bằng cách tự mặc khải chính mình, Thiên Chúa muốn giúp cho loài người có khả năng đáp lời Người, nhận biết và yêu mến Người vượt trên những gì họ có thể làm được tự sức mình. Từ thuở ban đầu, Thiên Chúa tự mặc khải cho con người Ab origine Deus Se praebet cognoscendum Foedus cum Noe Deus Abraham eligit Deus populum Suum Israel efformat III. CHÚA GIÊSU KITÔ – “ĐẤNG TRUNG GIAN Christus Iesus « mediator simul et plenitudo totius Revelationis » Thiên Chúa đã phán dạy mọi sự trong Ngôi Lời Deus totum in Verbo Suo dixit Alia Revelatio ulterius non habebitur Compendium Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
CATECHISMUS CATHOLICAE ECCLESIAE
1992
PHẦN THỨ NHẤT
Tuyên Xưng Đức Tin
PARS PRIMA
PROFESSIO FIDEI
ĐOẠN THỨ NHẤT
“CREDO” – “CREDIMUS”
THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI
DEUS HOMINI OCCURRIT
Mục 1
53 1953 1950 Ý định mặc khải được thể hiện cùng một trật qua "hành động và lời nói, cả hai liên kết chặt chẽ và soi sáng cho nhau" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 2: AAS 58 1966, 818). Ý định đó hàm chứa "một đường lối sư phạm thần linh" đặc biệt của Thiên Chúa: Thiên Chúa thông ban chính mình cho con người một cách tiệm tiến, chuẩn bị từng giai đoạn để con người đón nhận mặc khải siêu nhiên về chính bản thân Người. Mặc khải này sẽ đạt tới tột đỉnh nơi con người và sứ mạng của Lời nhập thể là Đức Giêsu Kitô.
Thánh Irênê thành Lyon nhiều lần nói về đường lối sư phạm của Thiên Chúa dưới hình ảnh Thiên Chúa và con người làm quen nhau: "Ngôi Lời của Thiên Chúa đã ở giữa loài người và trở thành con của loài người, để con người quen đón nhận Thiên Chúa, và để Thiên Chúa quen ở giữa loài người, theo ý định tốt đẹp của Chúa Cha" (Thánh Irênê, Adversus haereses, Chống lạc giáo 3,20,2; xem thí dụ ở phần chống lạc giáo 3,17,1; 4,12,4; 4,21,3).
II. NHỮNG GIAI ĐOẠN CỦA MẶC KHẢI
Revelationis periodi
54 32 374 "Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và bảo tồn mọi sự nhờ Ngôi Lời, không ngừng làm chứng về Mình trước mặt loài người qua các thụ tạo. Và vì muốn mở đường cứu độ cao trọng nên từ đầu Người còn tỏ Mình ra cho tổ tông chúng ta". Người đã mời các nguyên tổ sống kết hợp mật thiết với Mình, khi ban cho họ ân sủng và đức công chính rạng ngời" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 3: AAS 58 (1966) 818.).
55 397,410 Tội của nguyên tổ không làm gián đoạn mặc khải. Quả vậy," sau khi tổ tông sa ngã, qua lời hứa ban ơn cứu chuộc, Người đã nâng họ dậy trong niềm hy vọng ơn cứu độ. Người không ngừng săn sóc nhân loại, để ban sự sống đời đời cho tất cả những ai tìm kiếm ơn cứu độ nhờ kiên tâm làm việc thiện" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 3: AAS 58 1966, 818).
761 Tuy con người đã mất tình nghĩa với Cha vì tội bất phục tùng, Cha cũng không đành bỏ mặc cho sự chết thống trị... Nhiều lần Cha đã giao ước với loài người (Kinh nguyện Thánh Thể IV: Sách Lễ Rôma, editio typica, Typis Polyglottis Vaticanis 1970, 467).
Giao ước với Nôê
56 401 1219 Khi tội lỗi phá vỡ sự thống nhất của nhân loại, Thiên Chúa tìm cách cứu họ qua từng nhóm người. Giao ước với ông Nôê sau lụt hồng thủy (St 9,9) nói lên nguyên tắc, qua đó Thiên Chúa thực hiện Nhiệm Cục cứu độ các "dân tộc", tức là những con người tập hợp lại theo xứ sở của họ, "mỗi người tùy theo tiếng nói và tùy theo thị tộc của họ" (St 10, 5; 10, 20-31).
57. Trật tự gồm nhiều dân tộc (x. Cv 17,26-27) vừa có tính vũ trụ, vừa có tính xã hội và tôn giáo này được Thiên Chúa thiết đặt để ngăn chặn lòng kiêu căng của nhân loại đã sa ngã nhưng vẫn đồng lõa với nhau trong sự đồi bại (x. St 10,5) để mưu cầu sự hiệp nhất như chuyện tháp Baben (x. St 11,4-6). Nhưng vì tội lỗi (x. Rm 1,18-25) làm con người mê muội, nên thuyết đa thần cũng như tệ sùng bái, dân tộc và thủ lãnh luôn đe dọa nhiệm cục tạm thời này bằng sự lệch lạc ngoại giáo.
58 674 2569 Giao ước với ông Nôê có giá trị suốt thời của các dân tộc (x. Lc 21,24), cho tới khi Tin Mừng được loan báo khắp thế giới. Thánh Kinh tôn kính một vài gương mặt vĩ nhân của các "dân tộc", như ông "Aben người công chính", vị vua tư tế Melchisêđê (x. St 14,18) được xem như hình bóng Đức Kitô x. Dt 7,3), hoặc các người công chính "Nôê, Đaniel và Job" (Êd 14,14). Như vậy, Thánh Kinh nói lên mức độ thánh thiện cao vời mà những người sống dưới chế độ giao ước Nôê đã có thể đạt tới, trong khi đợi chờ Đức Kitô "qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối" (Ga 11,52).
Thiên Chúa tuyển chọn ông Abraham
59 145,2570 Để qui tụ loài người đã bị tản mác, Thiên Chúa tuyển chọn ông Abram bằng cách kêu gọi ông "rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha của ông" (St 12,1), để làm cho ông trở nên "Abraham", tức là "cha của vô số dân tộc" (St 17,5): "nhờ ngươi, muôn dân sẽ được chúc phúc" (St 12,3 LXX) (x.Gl 3.8).
60 760 762,781 Dân tộc phát sinh từ Abraham sẽ lãnh nhận lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ. Đây là dân tuyển chọn (x.Rm 11,28), được gọi để chuẩn bị cho cuộc qui tụ con cái Thiên Chúa một ngày nào đó trong Hội Thánh duy nhất (x.Ga 11,52; 10,16); dân này sẽ là gốc rễ mà các dân ngoại khi tin vào Thiên Chúa sẽ được tháp vào (x.Rm 11,17-18.24).
61. Các tổ phụ, các ngôn sứ và những nhân vật khác nữa của Cựu Ước đã và sẽ luôn được tôn kính như những thánh nhân trong tất cả các truyền thống phụng vụ của Hội Thánh.
Thiên Chúa huấn luyện dân Israel
62 2060,2574 1961 Sau thời các tổ phụ, Thiên Chúa lập Israel làm dân của Người khi giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Người ký kết Giao Ước Sinai với dân và ban cho họ lề luật qua ông Môisen, để họ nhìn nhận và phụng sự Người như vị Thiên Chúa duy nhất hằng sống và chân thật, người Cha quan phòng và vị Thẩm Phán công minh, và để họ mong đợi Vị Cứu Tinh đã được Thiên Chúa hứa (X. CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 3: AAS 58 (1966) 818.).
63 204, 2801 839 Israel là Dân tư tế của Thiên Chúa (x.Xh 19,6), được "mang danh ĐỨC CHÚA" (Đnl 28,10). Đó là dân gồm "những người đầu tiên đã được nghe lời Thiên Chúa phán dạy" Phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh) gồm các "anh trưởng" của những người cùng chia sẻ đức tin của tổ phụ Abraham.
64 711, 1965 489 Qua các ngôn sứ, Thiên Chúa huấn luyện dân Người trong niềm hy vọng vào ơn cứu độ, trong sự chờ đợi một Giao Ước mới, Giao Ước vĩnh cửu dành cho tất cả mọi người (x.Is 2,2-4) và sẽ được ghi khắc trong lòng mọi người (x.Gr 31,31-34; Đnl 10,16). Các ngôn sứ tiên báo Thiên Chúa sẽ cứu chuộc trọn vẹn dân Israel, thanh tẩy họ khỏi mọi bất trung (Ed 36) và ban ơn cứu độ cho tất cả các dân tộc (x.Is 49,5-6; 53,11). Chính những người nghèo khó và khiêm nhu của Chúa (Xph 2,3) sẽ cưu mang niềm hy vọng này. Những phụ nữ thánh thiện như các bà Sara, Rêbecca, Rachel, Miryam, Đêbora, Anna, Juđitha và Esther, đã gìn giữ cho niềm hy vọng cứu độ ấy của Israel được luôn sống động. Về vấn đề này, Đức Maria là gương mặt sáng chói nhất (x. Lc 1,38).
VÀ ĐỒNG THỜI LÀ SỰ VIÊN MÃN CỦA TOÀN BỘ MẠC KHẢI” (DV 2)
65 102 "Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy cha ông ta; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy ta qua Con của Người " (Dt 1,1-2). Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, là Lời duy nhứt, hoàn hảo và dứt khoát của Chúa Cha. Nơi Người, Thiên Chúa phán dạy mọi sự, và sẽ không có lời nào khác ngoài Lời đó. Nối gót bao người, Thánh Gioan Thánh Giá diễn tả điều đó với những lời lẽ sáng ngời khi quảng diễn Dt 1,1-2:
516 2717 Một khi đã ban cho chúng ta Chúa Con, là Lời của Người, Thiên Chúa không còn Lời nào khác để ban cho ta. Người đã nói hết trong một lần và cùng một trật, trong Lời duy nhất đó, và không còn gì để nói nữa. Những gì Người chỉ nói từng phần với các ngôn sứ, thì Người đã nói hết trọn vẹn trong Con của Người bằng cách ban cho chúng ta điều trọn vẹn ấy là Con của Người. Do đó, ai còn muốn gạn hỏi Người hoặc ước ao có một thị kiến hay mặc khải, người ấy chẳng những làm một sự điên rồ, mà còn xúc phạm đến Thiên Chúa, bởi không nhìn vào Đức Kitô mà lại đi tìm những gì khác hay những điều mới lạ (Thánh Gioan Thánh giá, Subida del monte Carmelo, 2, 22, 3-5: Biblioteca Mistica Carmelitana, v. 11 (Burgos 1929) 184, Cát minh 2,22).
Sẽ không còn Mặc Khải nào khác
66 94 "Nhiệm cục Kitô giáo, vì là Giao Ước mới và vĩnh viễn, sẽ không bao giờ mai một, chúng ta không phải chờ đợi một mặc khải công khai nào khác nữa trước khi Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang" (CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 4: AAS 58 (1966) 819). Dù Mặc Khải đã hoàn tất, nhưng vẫn chưa được diễn đạt hoàn toàn rõ rệt, nên Hội Thánh phải cố gắng tìm hiểu một cách tiệm tiến qua dòng thời gian.
67 84 Theo dòng lịch sử, có những điều gọi là "mặc khải tư," một số được thẩm quyền Hội Thánh công nhận. Tuy vậy, những mặc khải đó không thuộc kho tàng đức tin. Vai trò của chúng không phải là "cải thiện" hoặc "bổ sung" Mặc Khải tối hậu của Đức Kitô, mà để giúp người ta sống Mặc Khải cách trọn vẹn hơn vào một thời điểm lịch sử. Được Huấn Quyền Hội Thánh hướng dẫn, người tín hữu nhờ cảm thức đức tin sẽ biết nhận định và tiếp thu trong các mặc khải đó, những gì là lời mời gọi đích thực của Đức Kitô hoặc của các thánh gởi đến cho Dân Người.
Theo đức tin Kitô giáo không có mặc khải nào được coi là vượt cao hơn hay sửa đổi mặc khải được hoàn tất trong Đức Kitô. Hiện nay một số tôn giáo ngoài Kitô giáo và một số giáo phái được sáng lập gần đây đặt nền tảng trên những "mặc khải" như thế.
TÓM LƯỢC
68 Vì tình thương, Thiên Chúa đã tự mặc khải và ban chính mình cho con người. Như vậy, Người mang đến một lời giải đáp cuối cùng và phong phú cho những câu hỏi mà con người đặt ra cho mình về ý nghĩa và cùng đích cuộc đời.
69. Thiên Chúa tự mặc khải cho con người bằng cách dùng hành động và lời nói, từng bước thông ban mầu nhiệm chính bản thân mình cho họ.
70. Ngoài những chứng từ nơi các thụ tạo, Thiên Chúa còn đích thân tỏ mình cho nguyên tổ chúng ta. Người đã nói với họ, và sau khi họ sa ngã, Người hứa ban ơn cứu độ (St 3,15) và mời họ ký kết giao ước với Người.
71. Thiên Chúa ký kết với ông Nôê một giao ước vĩnh cửu giữa Người và mọi sinh linh (St 9,16). Giao ước này sẽ tồn tại bao lâu thế gian còn tồn tại.
72. Thiên Chúa đã tuyển chọn ông Abraham và ký kết một giao ước với ông và dòng dõi ông. Từ đó, Thiên Chúa thiết lập dân Người và mặc khải Lề Luật cho họ qua ông Môisen. Nhờ các ngôn sứ, Thiên Chúa đã chuẩn bị dân Người đón nhận ơn cứu độ dành cho toàn thể nhân loại.
73. Thiên Chúa tự mặc khải trọn vẹn khi cử chính Con Mình đến trần gian; nơi Chúa Con, Thiên Chúa đã thiết lập Giao Ước của Người cách vĩnh viễn. Con Thiên Chúa là Lời tối hậu của Chúa Cha nói với nhân loại; sau Người, không còn một mặc khải nào khác.
Xin Thiên Chúa là Cha Nhân Từ chúc lành cho